Chẩn đoán ung thư buồng trứng

14:51 14/04/2015

(Giúp bạn)Ung thư buồng trứng là bệnh lý ác tính và là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ. Trong đó ung thư biểu mô buồng trứng là loại ung thư thường gặp nhất.

Diễn tiến âm thầm ở những giai đoạn đầu

Theo Vietnamnet, giai đoạn sớm, ung thư buồng trứng hiếm khi có các triệu chứng hay dấu hiệu, hoặc nếu có cũng thường rất nhẹ và biểu hiện qua các cơ quan khác như cơ quan tiêu hóa. Các triệu chứng có xu hướng phát triển chỉ khi ung thư tiến triển nặng. Đó là lý do phần lớn bệnh nhân (khoảng 70% trường hợp) khi phát hiện bệnh đã ở giai đoạn III hoặc IV.

Khi ung thư buồng trứng đã tiến triển nặng, người bệnh có thể nhận thấy các triệu chứng như chảy máu âm đạo bất thường, chướng bụng và khó chịu, đầy hơi, khó tiêu dai dẳng, xì hơi hoặc buồn nôn, các thay đổi trong hoạt động ruột, như táo bón, mất cảm giác ngon miệng, đau lưng…

-1

(Ảnh minh họa)

Trên thực tế, nếu ung thư buông trứng được phát hiện sớm thì cơ hội chữa khỏi rất cao, có thể lên đến 90%. Ước tính tỷ lệ sống sau 5 năm nếu phát hiện bệnh ở giai đoạn I là 73%, giai đoạn II là 46%, nếu ung thư được phát hiện ở giai đoạn III và IV thì tỷ lệ sống giảm đáng kể chỉ còn từ 5% - 19%.

Tuy nhiên, bệnh có tỷ lệ tử vong cao do thường được phát hiện muộn. Do vậy, việc phát hiện sớm ung thư buồng trứng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp gia tăng cơ hội chữa khỏi với căn bệnh nguy hiểm này.

Chẩn đoán

Theo Phụ nữ Online, ung thư buồng trứng (UTBT) hiện là bệnh lý ác tính và là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ. Trong đó ung thư biểu mô buồng trứng (UT BMBT) là loại UT thường gặp nhất, chiếm 95% của UTBT. Chẩn đoán xác định UTBT đòi hỏi phẫu thuật, tuy nhiên, có nhiều phương thức được thực hiện để xác định tính chất u lành hay ác.

CA 125 (Cancer Antigen 125) là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất cho UT BMBT và được sự chấp thuận của Hiệp hội Lương thực và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) trong điều trị UT BMBT. CA 125 thường được sử dụng riêng lẻ để thẩm định khối u phần phụ hoặc kết hợp với các chỉ dấu sinh học trong huyết thanh và/hoặc siêu âm vùng chậu.

Nồng độ CA 125 trong huyết thanh là thử nghiệm cận lâm sàng thường được dùng nhất để đánh giá khối u phần phụ có bị UT BMBT hay không, nhưng thử nghiệm này có vài thiếu sót. Thực hiện chẩn đoán của CA 125 bị giới hạn, đặc biệt trong trường hợp bệnh ở giai đoạn sớm. Ngoài ra, nó hữu dụng đối với những phụ nữ sau mãn kinh.

CA 125 riêng lẻ có độ nhạy và độ đặc hiệu thấp, đặc biệt trong UT giai đoạn sớm. Độ đặc hiệu thấp với phụ nữ trước mãn kinh. Nhiều nghiên cứu cho thấy, CA 125 cao ở phụ nữ mãn kinh, độ nhạy đối với UTBT là 69-87%, độ đặc hiệu là 81-93%; đối với phụ nữ tiền mãn kinh, độ nhạy là 50-74%, độ đặc hiệu là 69-78%.

Độ đặc hiệu thấp ở phụ nữ tiền mãn kinh do CA 125 cao cũng được liên kết với nhiều điều kiện khác với UT BMBT và nhiều trong số này được tìm thấy ở những bệnh nhân độ tuổi sinh sản.

Tham khảo thuốc: Vitamin B9

Việc bổ sung acid folic phải được thực hiện dưới sự theo dõi chặt chẽ của các bác sĩ trong điều trị thiếu máu ác tính nguyên hồng cầu khổng lồ. Vì triệu chứng thiếu acid folic dễ che lấp triệu chứng thiếu hụt B12 nên thường người ta dùng B12 trước để điều trị thiếu máu ác tính, nếu không hiệu quả sẽ chuyển sang dùng acid folic.

Tú Liên

Nên đọc
-2 Các phương pháp điều trị bệnh loạn dưỡng cơ
-3 Triệu chứng bệnh loạn dưỡng cơ
-4 Những hiểu lầm phổ biến về nhịp tim
-5 Nguyên nhân gây bệnh loạn dưỡng cơ


Theo GDVN

Comments