Bệnh khô khớp là bệnh gì?

15:53 14/04/2015

(Giúp bạn)Thông thường có 3 nguyên nhân chính gây chứng khô khớp, đó là tổn thương sụn khớp, tổn thương xương dưới sụn và giảm tiết dịch khớp.

Báo điện tử doanh nhân Sài Gòn cho biết, khô khớp gối hay khô khớp xương nói chung là hiện tượng các khớp khi vận động phát ra tiếng kêu lạo xạo. Khô khớp có thể chỉ biểu hiện đơn độc, nhưng cũng có thể kèm theo các triệu chứng khác của bệnh khớp như sưng, nóng, đỏ, đau, hạn chế vận động.

Khô khớp xương thường xảy ra ở người lớn tuổi (ngoài 50), khi xương khớp có dấu hiệu thoái hóa, song nhiều người ở độ tuổi còn trẻ cũng có thể mắc hiện tượng này. Nếu không được phát hiện sớm và điều trị, bệnh có thể có những biến chứng khó chữa.

Quá trình dẫn đến bệnh khô khớp

Ở các khớp bao giờ cũng có một lớp sụn giúp khớp trơn tru, dễ dàng vận động, chịu được sức nén. Lớp sụn này luôn được đổi mới, mòn đến đâu phục hồi đến đấy. Quá trình này kéo dài cho đến tuổi già, khi cơ thể còn đáp ứng với việc phá hủy. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng ngày một yếu đi, vì thế sụn khớp cũng ngày càng mỏng đi, nứt nẻ.

Bên cạnh đó, ngoài lớp sụn, để khớp hoạt động tốt, cần phải có một chất hoạt dịch (hay còn gọi là dịch nhầy, dịch khớp) có tác dụng bôi trơn các đầu khớp xương và sụn.

Tuổi tác càng cao, lượng dịch nhầy tiết ra giữa các khớp càng giảm. Điều này khiến những khớp xương hoạt động không trơn tru và phát ra tiếng kêu.

-1

Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng khô khớp

- Do lão hóa: Ở những người cao tuổi, sụn khớp bị bào mòn gây ra hiện tượng rách bao sụn và biến dạng tổ chức sụn. Xương khi không còn lớp sụn bảo vệ sẽ cọ xát vào nhau gây ra hiện tượng khô khớp.

Với khô khớp ở lứa tuổi thiếu niên có thể là do sự phát triển không đồng đều của các dây chằng, gân, cơ, và xương trong thời kỳ khớp đang lớn.

- Do thoái hóa khớp: Thoái hóa khớp do tuổi già, do bị chấn thương gãy xương vùng khớp gối, bệnh lý thấp khớp, gút, đứt dây chằng không chữa kịp thời.

Thường xuyên ở trong một số tư thế như ngồi xổm, gác chân, khiêng vác quá nặng cũng có thể thúc đẩy quá trình hư, khô khớp diễn ra nhanh hơn.

Thoái hóa khớp làm lớp sụn bị bào mòn và mất dần tính chất mềm mại, trở nên cứng rắn (hóa xương), gây chèn ép, cọ xát lên lớp màng xương ở các đầu xương, gây ra tiếng lạo xạo và kèm theo đau.

- Khô khớp còn do viêm khớp (viêm đa khớp tiến triển), bệnh thống phong, vẩy nến, do vôi hóa ở ổ khớp (sự lắng đọng canxi ở ổ khớp gây trở ngại cho hoạt động của khớp, làm khớp bị khô) do trật khớp sau chấn thương, do căng giãn quá mức gân cơ khiến các khớp bị lệch vị trí và tạo ra sự cọ xát, do béo phì (trọng lượng cơ thể đè nén lên ổ khớp), do chạy nhảy, di chuyển với tốc độ nhanh.

Điều trị bệnh khô khớp như thế nào?

Theo Báo Sức khỏe và Đời sống, đầu tiên là phải phát hiện nguyên nhân bệnh gây chứng khô khớp. Nếu phát hiện sớm và điều trị kịp thời thì có thể ổn định bệnh trong thời gian dài. Thứ hai là phải dùng các thuốc giúp phục hồi khớp bị tổn thương. Đó là các thuốc chống thoái hóa khớp, chứa các thành phần của sụn khớp như collagen týp 2, glucosamin, chondroitin, axit hyaluronic.

Hiện nay, có cả liệu pháp tiêm acid hyaluronic nội khớp, thường là vào khớp gối, vai. Phương pháp tiêm này nhằm cung cấp acid hyaluronic là một thành phần của dịch khớp, giúp bôi trơn khớp, giảm ma sát, giảm xóc, do vậy, làm khớp vận động trơn tru. Thông thường, bệnh nhân có thể được tiêm 3-5 mũi tiêm vào một khớp, mỗi mũi tiêm cách nhau 1 tuần.

-2

Một số nghiên cứu cho thấy, tác dụng giảm đau, bôi trơn khớp kéo dài đến 6 tháng hoặc 1 năm do thuốc tiêm vào kích thích các tế bào sụn và tế bào màng hoạt dịch khớp sản sinh ra acid hyaluronic nội sinh.

Ngoài ra, cần bổ sung canxi vitamin D, các khoáng chất khác như magiê, vitamin K hàng ngày qua các thực phẩm như sữa, rau, trái cây để giúp xương chắc khỏe.

Nếu cần thiết có thể bổ sung mỗi ngày 1 viên đa sinh tố chứa magiê, vitamin K, acid folic, vitamin B6 và B12. Chúng ta cần tích cực điều trị và dự phòng khô khớp càng sớm thì kết quả càng cao và càng đỡ tốn kém.

Phòng ngừa và hạn chế bệnh khô khớp

Chúng ta có thể làm chậm quá trình khô khớp bằng chế độ ăn uống và tập luyện, vận động đúng mức, phù hợp tình trạng sức khỏe.

Trong chế độ ăn, bạn nên ăn các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng, khoáng chất như cá biển, mực, tôm, cua, rong biển hay những loại rau mồng tơi, đậu. Bạn cần hạn chế đồ uống có cồn, bỏ hút thuốc lá, thuốc lào. Bạn cũng cần bảo vệ khớp khỏi các chấn thương.

Trong sinh hoạt hàng ngày, cần tránh các tư thế ngồi xổm, hạn chế lên xuống cầu thang, tránh cúi xuống nhấc vật nặng hay ngồi hàng giờ cong vẹo người ở tư thế xấu khi thêu thùa, may vá, viết lách. Bạn cũng không nên làm động tác bẻ các ngón tay kêu lắc rắc vì sẽ làm chấn thương dây chằng hay mặt khớp.

Không nên tập thể hình với mang vác tạ quá nặng ở tư thế đứng hay ngồi. Tránh va chạm mạnh khi chơi các môn thể thao đối kháng như đá bóng, bóng rổ. Bạn nên tập thể dục đều đặn. Những lúc nghỉ giải lao giữa giờ làm việc, bạn nên vươn người, co duỗi tay, chân tại chỗ, làm các bài tập thể dục nhẹ nhàng.

Các bài tập theo sách Suối nguồn tươi trẻ hay tập Thái cực quyền, tập khí công rất có ích cho sự mềm dẻo, linh hoạt của khớp. Trước khi tập thể thao, bạn nên thường xuyên xoa bóp, khởi động cơ thể. Cũng cần có chương trình luyện tập thể thao tăng dần từ nhẹ đến nặng, từ đơn giản đến phức tạp.

Khi tập luyện, nên tiến hành từ từ, không tập quá sức. Không nên nôn nóng, đốt cháy giai đoạn. Những môn thể thao có lợi cho xương khớp là đi bộ, đi xe đạp, bơi lội.

Thuốc tham khảo: Glucosamin 500 DHG Pharma

Giảm triệu chứng của viêm khớp gối nhẹ và trung bình.

Thùy Linh

Nên đọc
-3 Thói quen gây hại cho xương khớp
-4 Cẩn trọng khi dùng Meloxicam trị bệnh xương khớp
-5 Những bệnh cơ xương khớp ở trẻ cần đặc biệt lưu ý
-6 Chứng đau, nhức xương khớp

Theo GDVN

Comments