Tác dụng chữa bệnh của cây diệp hạ châu (cây chó đẻ)

12:33 10/03/2014

(Giúp bạn)

 

Diệp hạ châu có tác dụng thanh Can lương huyết, sát trùng giải độc. Nhiều nghiên cứu khoa gần đây đã cho thấy đây là một thảo dược có tác dụng rất tốt trong việc điều trị sỏi thận, sỏi mật và viêm gan siêu vi B.




tac-dung-chua-benh-cua-cay-diep-ha-chau-cay-cho-de-1Diệp hạ châu (DHC) thường được gọi là cây Chó đẻ răng cưa, tên khoa học Phyllanthus urinaria L., thuộc họ thầu dầu Euphorbiaceae.  DHC cao từ 30 đến 60cm, thân nhẳn, mọc thẳng đứng, lá mọc so le, phiến lá thon nhỏ dài từ 5 đến 15mm, rộng từ 2 đến 5mm. DHC mọc hàng năm ở  khu vực nhiệt đới, là loại cỏ mọc hoang có thể tìm thấy nhiều nơi  khắp nước ta. Theo Đông y, DHC vị  đắng, hơi ngọt, tính mát, có tác dụng thanh Can lương huyết, lợi tiểu, sát trùng, giải độc.

 DHC và cây “tán sỏi”.

tac-dung-chua-benh-cua-cay-diep-ha-chau-cay-cho-de-2Ở phương Tây, DHC và một số loài thực vật cùng họ Euphorbiaceae được gọi tên là Chanca Piedra. Tên Chanca Piedra có xuất xứ từ thổ ngử của 1 bộ lạc người da đỏ ở Peru với ý nghĩa Break Stone, tạm dịch là cây tán sỏi. (Từ Chanca có nghĩa  to break làm bể hoặc bẻ gảy; từ Piedra  có nghĩa stone sạn, sỏi).  DHC là 1 cây thuốc phổ biến được sử dụng từ lâu đời ở Nam Mỹ để điều trị nhiều loại bệnh khác nhau như phù thủng, bệnh gout, sốt rét, thương hàn, cảm cúm, bón uất, kiết lỵ, ung nhọt, lở loét, tiểu đường.  Tuy nhiên, ngay từ những thời kỳ đầu biết đến loại thực vật nầy, khi mà tình trạng nhiễm độc gan và viêm gan không nghiêm trọng như bây giờ,  kinh nghiệm dân gian cũng như những vị pháp sư đã có được ấn tượng rất đặc biệt của DHC trong tác dụng làm tiêu sỏi trong các chứng sạn mật, sạn thận nên đã đặt tên là cây tán sỏi.  Trong Witch Doctor’s Apprentice, 1 quyển sách được xuất bản từ 1961, viết về những bí thuật chữa bệnh của những vị pháp sư người da đỏ ở vùng rừng già Amazon,  bà Nicole Maxwell cho biết Chanca Piedra là loại thảo dược chủ yếu của những vị pháp sư ở đây.  Sau đó, bà cũng đã gặp ông Wolfram Wiemann, một bác sĩ người Đức ở Nuremburg. Vị nầy  cho biết 94% bệnh nhân mắc sỏi thận và sỏi mật của ông đã được chữa khỏi hoàn toàn từ 1 đến 2 tuần lễ bằng vị thuốc nầy.  Một nghiên cứu ở  trường Đại học Y Paulists ở Sao Paulo, Brazil vào năm 1990 đã cho biết DHC chữa khỏi sỏi thận ở người và chuột thí nghiệm sau khi được cho uống trà DHC từ 1 đến 3 tháng.  Những nghiên cứ tiếp theo vào năm 1999 cũng xác định những hoạt chất của DHC có tác dụng gia tăng lượng nước tiểu, ngăn cản sự tạo thành những tinh thể calcium oxalate cũng như làm giảm kích thước những viên sỏi đã hình thành.  Kết quả nầy cũng phù hợp với những nghiên cứu sau đó cho biết DHC có tác dụng lợi tiểu, tăng tiết mật và giãn cơ, đặc biệt là các cơ ở vùng  sinh dục tiết niệu và ống mật. Những tác dụng nầy  dẫn đến hiệu quả trục xuất sỏi. Ngoài ra, nghiên cứu  cũng cho biết tác dụng làm bể nhưng tinh thể calcium oxalate  và cả tác dụng giảm đau kéo dài của DHC cũng hổ trợ tốt cho việc chữa sỏi thận.

DHC giải độc gan và chữa viêm gan siêu vi B.

 

 

DHC được Đông y sử dụng như 1 loại thuốc thanh Can lương huyết, giải độc sát trùng từ lâu đời.  Tuy nhiên, tác dụng giải độc gan và chữa viêm gan siêu vi B chỉ mới được các nhà khoa học lưu ý từ những năm 1980s về sau.  Nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật bản và Ấn độ đã cho biết họ đã phân lập được những hợp chất trong DHC có khả năng chữa bệnh viêm gan như phyllantin, hypophyllantin và triacontanal.  Tác động chống virus siêu vi B được báo cáo lần đầu tiên tại Ấn độ vào năm 1982. Sau đó, một báo cáo trên tạp chí Lancet vào năm 1988 cũng xác định tác dụng này.  Theo báo cáo này 2 nhà khoa học Blumberg và Thiogarajan đã điều trị 37 trường hợp viêm gan siêu vi B với kết quả 22 trong số 37 người đã đạt được kết quả âm tính sau 30 ngày dùng DHC. Ðối với viêm gan siêu vi, DHC có khả năng làm hạ men gan, tăng cường chức năng gan và ức chế sự phát triển của virus.  Theo các nhà khoa học, những tác nhân gây viêm gan hoặc hoại tử tế bào gan thường bắt đầu từ sự gia tăng quá trình peroxide hoá lipid ở màng tế bào.  Do đó, bảo vệ gan phải bắt đầu từ những chất chống oxy hoá có tính năng ức chế qúa trình nầy.  DHC có hàm lượng những chất chống oxy hoá hướng gan có khả năng ức chế rất mạnh quá trình peroxide hoá ở gan.  Ngoài ra, những chất nầy còn làm gia tăng hàm lượng Glutathione  ở gan làm giảm hoạt động các enzym SGOT và SGPT trong những trường hợp viêm gan siêu vi đang tiến triển. 

Viêm gan siêu vi B là 1 căn bệnh nguy hiểm đang ảnh hưởng đến trên 300 triệu người trên thế giới mà sự chữa chạy bằng tây y rất tốn kém kể cả những phản ứng phụ không thể tránh được.  Do dó, sử dụng DHC là một giải pháp đáng lưu ý. Trên thực tế, DHC thường được sử dụng phối hợp với một số thảo dược khác. Điều nầy vừa làm tăng tác dụng chữa bệnh vừa làm dung hoà bớt tính mát của DHC. Hiện nay, trên thị trường cũng đã có nhiều sản phẩm DHC dưới hình thức trà, thuốc viên hoặc độc vị hoặc có phối hợp với một số vị khác.  Một số trường hợp chỉ cần dùng độc vị DHC cũng chữa khỏi viêm gan.  Điều quan trọng là cần có sự phối hợp của chế độ ăn ít mỡ, nhiều rau quả và năng vận động.

Trong cơ thể con người, gan có thể ví như 1 nhà máy lọc to lớn có chức năng giải độc cho cơ thể để duy trì các chức năng bình thường của tất cả các cơ quan.  Ngày nay, trong cuộc sống hiện đại, do môi trường ô nhiễm, do tâm lý căng thẳng và việc tiếp xúc với những hoá chất độc hại cũng như sử dụng nhiều loại  hoá dược, gan luôn luôn phải đối phó với nhu cầu cần được sơ tiết và giải độc.  Nhiều người cho rằng DHC là 1 trong những loại thực vật hàng đầu có thể đáp ứng được yêu cầu nầy.

Kinh nghiệm sử dụng ở nước ta thường phân ra 2 loại DHC đắng và DHC ngọt. DHC đắng có dược lực cao hơn DHC ngọt. Theo y học cổ truyền, vị đắng đi vào kinh Can, Đởm có tác dụng kích thích tiêu hoá, tăng tiết mật. Theo những nghiên cứu của y học phương Tây, DHC đắng  sẽ có nhiều chất chống oxy hoá thuộc nhóm xanthones hơn.  Do đó, dược tính cũng cao hơn.  Với DHC đắng, liều dùng trung bình từ 10 đến 20g mỗi ngày (dạng phơi khô). 

Vài cách sử dụng DHC.

 

 

Chữa viêm gan siêu vi.

DHC đắng 16g,  Nhân trần nam16g,  Vỏ bưởi (phơi khô, sao) 4gHậu phác 8g, Thổ phục linh 12g.

Nếu cơ thể quá suy nhược có thể gia thêm rễ Đinh lăng 12g, nhiệt nhiều gia thêm Rau má 12g, Hạt dành dành 12g, báng tích nhiều gia Vỏ đại 8g.  Sự phối hợp giữa DHC, Nhân trần và Thổ phục linh tăng tác dụng giải độc, chống siêu vi.  Gia thêm Vỏ bưởi, Hậu phác ấm nóng giúp kiện Tỳ để trung hoà bớt tính mát của Nhân trần và DHC khi cần sử dụng lâu dài.

 

 

Chữa suy gan do rượu, sốt rét, nhiễm độc do môi trường hoặc các trường hợp hay nổi mẩn, nổi mụn do huyết nhiệt.

DHC đắng 12g, Cam thảo đất 12g. Sắc nước uống hàng ngày thay trà.

 

 

Chữa sạn mật, sạn thận.

DHC đắng 24g. Sắc uống, sắc làm 2 nước để vừa tận dụng được hoạt chất vừa uống thêm nhiều  nước. Nếu đầy bụng, ăn kém gia thêm Gừng sống hoặc Hậu phác.  Để ngăn chận sỏi tái phát, thỉnh thoảng nên dùng  DHC dưới hình thức hãm uống thay trà, liều khoảng 8 đến 10g mỗi ngày.

 

 

Chữa sốt rét.

DHC đắng 16g,  Thảo quả 12g,  Thường sơn 16g, Hạ khô thảo 12g,  Binh lang 8g,  Đinh lăng 12g.  Sắc uống.

Lưu ý:  -  DHC không có độc tính, độ an toàn cao ngoại trừ một số trường hợp đau cơ, co giật trong khi điều trị sỏi thận hoặc sỏi mật do quá trình tống xuất sỏi. Tuy nhiên, DHC có tính mát có thể gây trệ Tỳ, đầy bụng ở những người có Tỳ Vị hư hàn, dùng liều cao hoặc dùng lâu  ngày.  Do đó, những trường hợp nầy nên phối hợp với những vị thuốc có tính cay ấm để dung hoà bớt tính mát của DHC.

 - Gần đây có một số thông tin cho rằng uống DHC có thể gây vô sinh.  Điều nầy có lẻ bắt nguồn từ 1 nghiên cứu về tác dụng ngừa thai của DHC trên trên loài chuột của các nhà khoa học trường Đại học Gujaret ở Ấn độ.  Kết quả nghiên cứu cho thấy khi cho chuột uống cao toàn thân cây  DHC  liều 100mg/kg thể trọng đối với chuột cái hoặc 500mg/kg thể trọng đối với chuột đực có thể tạm thời ức chế khả năng sinh sản trong thời gian thí nghiệm 30 ngày (chuột cái) hoặc 45 ngày (chuột đực). Sau khi ngưng uống DHC, khả năng nầy phục hồi bình thường. Điều nầy khác với vô sinh. Hơn nữa chỉ mới là thử nghiệm ban đầu trên loài vật.  Tuy nhiên, những người đang muốn có con không nên dùng DHC.

Diệp hạ châu là tên thường gọi của 2 cây Phyllanthus amarus và Phyllanthus niruri thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Nghiên cứu của Viện Dược liệu Việt Nam (1987-2000) cho thấy 2 loài Phyllanthus này đều có tại Việt Nam và đều có flavonoid, tannin, acid hữu cơ. Trong thực tế, các nhà khoa học cho rằng nó chỉ là một loại cây với hai tên gọi khác nhau mà thôi.

 

 

 

Gọi là Diệp hạ châu (ngọc dưới lá) vì cây có nhiều quả nhỏ hình tròn giống như hạt ngọc (châu) mọc bên dưới (hạ) các lá (diệp). Dân gian còn gọi là cây chó đẻ hoặc chó đẻ răng cưa, vì người ta thấy sau khi sinh con, những chó mẹ thường tìm những cây thuốc này để ăn. Tại Việt Nam, cây còn có nhiều tên địa phương khác như: Cam kiềm, cỏ Trân châu, Rút đất, Diệp hòa thái,...

 tac-dung-chua-benh-cua-cay-diep-ha-chau-cay-cho-de-3

Vùng phân bố của Diệp hạ châu khá rộng, cây mọc hoang tại Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới, như Ấn Độ, Trung Quốc, Cu Ba, Peru, Nigeria, Malaysia, Philippines, Guam, Brazil,...

 

Diệp hạ châu được dùng làm thuốc từ 2000 năm nay. Theo Trung Quốc Cao Đẳng Thực Vật Đồ Giám Bản (1972), Diệp hạ châu có tác dụng thanh can minh mục (mát gan sáng mắt), lợi thủy (trị phù ứ nước), giải độc tiêu tích (ăn uống không tiêu, bụng đầy trướng). Dựa vào các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, cũng như kinh nghiệm của nhiều dân tộc trên thế giới, có thể tóm tắt một số công dụng chính của Diệp hạ châu như sau.

 

 

 

Điều trị viêm gan:

Đây là một trong những công dụng được quan tâm nhiều nhất của Diệp hạ châu. Năm 1982, Break Stone đã gây được sự chú ý đối với toàn thế giới về tác dụng chống virus viêm gan B của cây thuốc này. Những thử nghiệm lâm sàng trên trẻ em với bệnh viêm gan truyền nhiễm bằng một chế phẩm có Phyllanthus amarus của Ấn Độ đã cho kết quả nhiều hứa hẹn. Sau 30 ngày uống Diệp hạ châu (900mg/ngày) 50% những yếu tố lây truyền trong máu của virus viêm gan B (sinh kháng thể bề mặt của viêm gan B) đã mất đi. Bột Diệp hạ châu (Phyllanthus niruri) cho kết quả tốt với bệnh nhân viêm gan B khi uống 900 - 2.700mg trong 3 tháng liên tục. Nghiên cứu của Nhật Bản và Ấn Độ trong năm 1980 đã xác định những tác dụng điều trị bệnh gan của Diệp hạ châu là do phyllanthin, hypophyllathin và triacontanal. Wang Shinhua (Đại học Trung Dược Quảng Châu - Trung Quốc), khi so sánh 30 bệnh nhân điều trị bằng Diệp hạ châu trong 6 tháng với 25 bệnh nhân sử dụng Interferon, đã báo cáo rằng: Diệp hạ châu có hiệu quả điều trị viêm gan siêu vi mạn qua việc phục hồi chức năng gan và ức chế sao chép siêu vi B.

 

Tại Việt Nam, khá nhiều công trình nghiên cứu về tác dụng điều trị viêm gan của Diệp hạ châu đã được tiến hành, chẳng hạn: nhóm nghiên cứu của Lê Võ Định Tường (Học Viện Quân Y - 1990 - 1996) đã thành công với chế phẩm Hepamarin từ Phyllanthus amarus; nhóm nghiên cứu của Trần Danh Việt, Nguyễn Thượng Dong (Viện Dược Liệu) với bột Phyllanthin (2001).

 

 

 

Tác dụng trên hệ thống miễn dịch:

Vào năm 1992, các nhà khoa học Nhật Bản cũng đã khám phá tác dụng ức chế sự phát triển HIV-1 của cao lỏng Phyllanthus niruri thông qua sự kìm hãm quá trình nhân lên của virus HIV. Năm 1996, Viện nghiên cứu Dược học Bristol Myezs Squibb cũng đã chiết xuất từ Diệp hạ châu được một hoạt chất có tác dụng này và đặt tên là “Nuruside”.

 

 

 

Tác dụng giải độc:

Người Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc dùng Diệp hạ châu để trị các chứng mụn nhọt, lở loét, đinh râu, rắn cắn, giun. Nhân dân Java, Ấn Độ dùng để chữa bệnh lậu. Theo kinh nghiệm dân gian Malaysia, Diệp hạ châu có thể dùng để trị các chứng viêm da, viêm đường tiết niệu, giang mai, viêm âm đạo,... Công trình nghiên cứu tại Viện Dược liệu - Việt Nam (1987 - 2000) cho thấy khi dùng liều 10 - 50g/kg, Diệp hạ châu có tác dụng chống viêm cấp trên chuột thí nghiệm.

 

 

 

Điều trị các bệnh đường tiêu hóa:

Cây thuốc có khả năng kích thích ăn ngon, kích thích trung tiện. Người Ấn Độ dùng để chữa các bệnh viêm gan, vàng da, kiết lỵ, táo bón, thương hàn, viêm đại tràng. Nhân dân vùng Haiti, Java dùng cây thuốc này trị chứng đau dạ dày, rối loạn tiêu hóa,..

 

 

 

Bệnh đường hô hấp:

Người Ấn Độ sử dụng Diệp hạ châu để trị ho, viêm phế quản, hen phế quản, lao,. ..

 

 

 

Tác dụng giảm đau:

Kenneth Jones và các nhà nghiên cứu Brazil đã khám phá tác dụng giảm đau mạnh và bền vững của một vài loại Phyllanthus, trong đó có cây Diệp hạ châu - Phyllanthus niruri. Tác dụng giảm đau của Diệp hạ châu mạnh hơn indomethacin gấp 4 lần và mạnh hơn 3 lần so với morphin. Tác dụng này được chứng minh là do sự hiện diện của acid gallic, ester ethyl và hỗn hợp steroid (beta sitosterol và stigmasterol) có trong Diệp hạ châu

 

 

 

Tác dụng lợi tiểu:

Y học cổ truyền một số nước đã sử dụng Diệp hạ châu làm thuốc lợi tiểu, trị phù thũng. Ở Việt Nam, Diệp hạ châu được dùng sớm nhất tại Viện Đông y Hà Nội (1967) trong điều trị xơ gan cổ trướng. Một nghiên cứu của trường Đại học Dược Santa Catarina (Brazil-1984) đã phát hiện một alkaloid của Diệp hạ châu (phyllan thoside) có tác dụng chống co thắt cơ vân và cơ trơn, các nhà khoa học đã nhờ vào điều này để giải thích hiệu quả điều trị sỏi thận, sỏi mật của cây thuốc.

 

 

 

Điều trị tiểu đường:

Tác dụng giảm đường huyết của Diệp hạ châu (Phyllanthus niruri) đã được kết luận vào năm 1995, đường huyết đã giảm một cách đáng kể trên những bệnh nhân tiểu đường khi cho uống thuốc này trong 10 ngày.

 

 

 

Một số công dụng khác:

Theo kinh nghiệm của nhân dân một số nước Nam Mỹ, Diệp hạ châu được sử dụng như một thuốc điều trị chứng thống phong (gout), sốt rét, cảm cúm, u xơ tuyến tiền liệt, rối loạn kinh nguyệt,... một số nơi còn dùng Diệp hạ châu để thông sữa ở phụ nữ cho con bú.

 

Cho đến nay, những nghiên cứu về tác dụng phụ của Diệp hạ châu cho thấy: chưa gặp bất cứ độc tính nào ngoại trừ hiện tượng gây chứng chuột rút trong thời gian sử dụng thuốc. Nếu có hiện tượng chuột rút thì cần giảm 1/2 liều điều trị. Các nhà khoa học cũng chưa nhận thấy có bất kỳ sự tương tác nào của Diệp hạ châu với các thuốc khác. Vì thế, có thể sử dụng Diệp hạ châu trong thời gian dài để khôi phục sự bình thường của chức năng gan và giải độc cơ thể.

 

Mặc dù chưa có báo cáo nào về tác dụng bất lợi của thuốc trên phụ nữ có thai, cũng cần thận trọng khi sử dụng Diệp hạ châu trên phụ nữ có thai thời kỳ đầu.

 

Thị trường Việt Nam hiện có khá nhiều chế phẩm dùng điều trị viêm gan dưới dạng trà tẩm, trà túi lọc, viên nang, viên bao đường,... của nhiều cơ sở sản xuất và kinh doanh trong và ngoài nước, giúp cho bệnh nhân viêm gan có nhiều cơ hội chọn lựa theo khả năng và khẩu vị của mỗi người. Phần lớn nguyên liệu để sản xuất các chế phẩm này là từ nguồn hoang dại, mà một cây thuốc khi mọc ở vùng địa lý khác nhau, có thể có hiệu quả điều trị khác nhau. Tốt nhất, người tiêu dùng nên chọn các sản phẩm có nguồn gốc rõ ràng, có số đăng ký của cơ quan có thẩm quyền.


Tác dụng của cây diệp hạ châu trị bệnh sỏi mật

Phyllanthus ninuri, một cây thuốc cùng họ với cây Phyllanthus amarus mà dân ta gọi là diệp hạ châu đắng, còn cây diệp hạ châu ngọt được gọi với tên Phyllanthus urinaria…, cũng đã trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam dưới tên gọi dân dã là chó đẻ răng cưa, hoặc mỹ miều hơn là diệp hạ châu (ngọc dưới lá).

diep-ha-chau


NHỮNG CÔNG DỤNG CỦA CÂY DIỆP HẠ CHÂU

Tại Pháp, Chanca Piedra còn được sử dụng điều trị sỏi thận, sỏi mật. Sản phẩm của Chanca Piedra gọi là Pilosuryl, được bán như một thuốc lợi tiểu. Chanca Piedra có thể sử dụng kéo dài nhằm khôi phục chức năng bình thường của gan và giải độc cơ thể (do gan có chức năng thải độc, chống độc cho cơ thể). Việc ăn các thức ăn có nhiều bơ, sữa, thịt, đường, thức ăn nhanh, hóa chất sát trùng, uống nước tiệt trùng bằng Clo, nước chứa ký sinh trùng, sử dụng thuốc tránh thai ở phụ nữ trẻ và hormone ở phụ nữ mãn kinh, điều trị bằng các hormone steroid, hóa trị liệu điều trị ung thư, sử dụng thuốc chữa bệnh tim mạch và ngăn ngừa chống loãng xương… cũng chính là những nguyên nhân thường gặp gây tổn hại cho gan.

Một nghiên cứu được tiến hành tại trường Ðại học Dược Santa Catarina (Brazil) vào năm 1984 về Chanca Piedra đã phát hiện có một alkaloid là phyllan thoside. Alkaloid này có tác dụng chống co thắt mạnh. Phyllanthoside có tác dụng chống co thắt cơ vân và cơ trơn, do vậy có thể giải thích được hiệu quả chữa bệnh của nó trong điều trị sỏi thận và chữa sỏi mật.

Các nhà nghiên cứu Brazil cũng khám phá tác dụng giảm đau mạnh và bền vững của vài giống Phyllanthus, bao gồm Phyllanthus niruri. Trong một cuốn sách có tựa đề “Cats claw, cây leo chữa bệnh” của Peru, tác giả Kenneth Jones đã dành hẳn một chương mục để nói về Chanca Piedra. Chúng ta biết rằng, morphin là một thuốc giảm đau gây nghiện cổ điển nhất trên thế giới và indomethacin cũng là một thuốc chống viêm, giảm đau. Thế nhưng, trong các cuộc thử nghiệm, Phyllanthus niruri có tác dụng giảm đau mạnh hơn indomethacin gấp 4 lần và mạnh hơn 3 lần so với morphin!

Tác dụng giảm đau của Phyllanthus đã được các nhà khoa học Brazil cho là do acid gallic, ester ethyl và hỗn hợp steroid như beta sitosterol và stigmasterol. Từ những năm 1960 đã có thông tin nói về Chanca Piedra. Những nghiên cứu của Brazil và Ấn Ðộ trước hết được áp dụng trên những người bản xứ. Trong một vài nghiên cứu khác đã được báo cáo, người ta không thấy có sự khác biệt nào của Phyllanthus niruni và Phyllanthus amarus vì các hoạt chất của 2 cây này là giống nhau. Trong thực tế, các nhà khoa học cho rằng nó chỉ là một loại cây với hai tên gọi khác nhau mà thôi. Tác dụng chống co thắt của Chanca Piedra trong nghiên cứu giữa năm 1980 của các nhà khoa học Brazil đã giải thích tác dụng điều trị sỏi thận và sỏi bàng quang trong dân gian của cây thuốc này.

Những Alkaloid của Phyllanthus có tác dụng làm giãn cơ, đặc biệt là đối với cơ quan bài tiết. Các nhà nghiên cứu phỏng đoán nó có tác dụng làm mòn sỏi ở đường tiết niệu (thận và bàng quang). Nghiên cứu của Nhật Bản và Ấn Ðộ trong năm 1980 đã xác định những tác dụng điều trị của Chanca Piedra đối với bệnh gan là do tác dụng của các hoạt chất phyllanthin, hypophyllathin và triacontanal. Glycoside được tìm thấy trong Chanca Piedra đã ức chế men Aldose reductase (AR), do các nhà nghiên cứu Nhật Bản kết luận thông qua một nghiên cứu tiến hành vào những năm 1988-1989. Còn vào các năm 1994-1995, các nhà khoa học Brazil đã phát hiện tác dụng giảm đau của Chanca Piedra. Trong một ghi chú đặc biệt, cuối những năm 80, Break Stone đã gây được sự chú ý đối với toàn thế giới về tác dụng chống virus viêm gan B của cây thuốc này.

Những thử nghiệm lâm sàng trên trẻ em với bệnh viêm gan truyền nhiễm bằng một thuốc chứa Phyllanthus amarus của Ấn Ðộ đã cho kết quả hứa hẹn trong cả Invivo và Invitro. Nghiên cứu Invitro về sự ức chế virus viêm gan B của Break Stone được báo cáo tại Ấn Ðộ vào năm 1982. Trong nghiên cứu trên Invivo, Break Stone cũng đã loại trừ virus gây bệnh viêm gan B ở những động vật có vú trong 3-6 tuần.

Những nghiên cứu khác tiến hành vào những năm 1990-1995 đã cho thấy Chanca Piedra có tác dụng chống lại virus viêm gan B.

Chúng ta cũng biết rằng virus viêm gan B không chỉ tồn tại trong giai đoạn cấp tính mà còn tồn tại trong cơ thể và có thể tiến tới gây ung thư gan. Các nghiên cứu cho thấy có tới 90% bệnh nhân bị ung thư gan đã từng mắc bệnh viêm gan virus B và đây quả là một điều đáng sợ! Phyllanthus niruri và Phyllanthus amatrus đã cho thấy các dược chất tự nhiên không độc mà nó chứa đựng có tác dụng đối với virus viêm gan B.

Cây thuốc này còn có tác động tới cả hệ thống miễn dịch của cơ thể. Khi mà AIDS trở thành đại dịch nguy hiểm trên thế giới và cho tới nay việc điều trị vẫn còn là một thách thức đối với khoa học, thì những nghiên cứu gần đây nhất của Break Stone đã phát hiện tác dụng chống virus HIV của cây thuốc này. Vào năm 1992, các nhà khoa học Nhật Bản cũng đã khám phá tác dụng ức chế sự phát triển HIV-1 của Phyllanthus niruri thông qua sự kìm hãm quá trình nhân lên của virus HIV với cao lỏng của cây thuốc. Trong một nghiên cứu khoa học được tiến hành vào năm 1996, Viện nghiên cứu Dược học Bristol Myezs Squibb cũng đã chiết xuất được ít nhất một hoạt chất có tác dụng này và người ta đã đặt tên nó là “Nuruside”.

DIỆP HẠ CHÂU CÓ ÐỘC TÍNH KHÔNG?

Người ta không gặp bất cứ độc tính nào ngoại trừ hiện tượng gây chứng chuột rút trong thời gian sử dụng thuốc. Nếu có hiện tượng chuột rút thì cần giảm 1/2 liều điều trị, thuốc đảm bảo an toàn ở phụ nữ có thai.

 


Diệp hạ châu đắng - Bí quyết bảo vệ gan của nam giới do bia rượu



Với quan niệm rượu bia là chất kết nối của tình bằng hữu, ngày nay bia rượu là một phần không thể thiếu trong cuộc sống.

Diệp hạ châu đắng - Bí quyết bảo vệ gan của nam giới do bia rượu

Rõ ràng ai cũng biết uống nhiều bia rượu sẽ có ảnh hưởng xấu đến tim mạch, dạ dày, thần kinh, đặc biệt là gan, gây ra các bệnh gan nhiễm mỡ, viêm gan, xơ gan, thậm chí ung thư gan. Tuy biết vậy nhưng một thực tế đáng ngại là người uống bia rượu vẫn bất chấp những cảnh báo này.

Thống kê từ các bệnh viện cho thấy số bệnh nhân phải nhập viện để điều trị bệnh xơ gan do uống rượu quá nhiều có xu hướng tăng trong thời gian gần đây. Khoảng ¼ số bệnh nhân nằm tại khoa Tiêu hóa là xơ gan. Rượu là thủ phạm gây xơ gan đứng hàng thứ 2 chỉ sau virus viêm gan B. Bệnh nhân xơ gan thường tử vong do các biến chứng như xuất huyết tiêu hóa, suy kiệt nặng, ung thư gan…

Đối với gan, bia rượu chính là chất độc. Khi uống bia rượu dù là lượng nhỏ, các enzym chống oxy hóa của gan bị suy yếu. Hàng triệu gốc tự do được hình thành tạo ra một chuỗi những tác hại cho gan. Uống quá chén trong thời gian dài sẽ gây tổn hại gan nghiêm trọng, dẫn đến viêm gan, xơ gan nguy hiểm. Vì vậy việc bảo vệ gan an toàn, thường xuyên khi sử dụng bia rượu là một vấn đề cần được đánh thức mạnh mẽ trong cộng đồng.

Diệp hạ châu đắng hay còn gọi là cây chó đẻ thân xanh, tên khoa học là Phyllathus amarus Schum.et Thonn, họ Thầu dầu. Diệp hạ châu đắng phân bố khắp các vùng nhiệt đới cổ. Tại Việt Nam có thể thấy diệp hạ châu đắng mọc hoang trên đất ẩm ở nhiều nơi. Diệp hạ châu đắng là loại cây thảo, cao chừng 10-40cm, ít phân cành, màu lục (khác với diệp hạ châu gọt thân đỏ). Diệp hạ châu đắng có thể dùng toàn cây, thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi sấy khô.

Diệp hạ châu đắng đã được sử dụng từ 2000 năm nay. Theo y học cổ truyền diệp hạ châu đắng vị đắng hơi ngọt, tính mát, quy kinh vào can, đởm nên có tác dụng kích thích tiêu hóa, tăng tiết mật. Công dụng chính là thanh can lương huyết (mát gan, mát máu), giải độc. Trong dân gian diệp hạ châu đắng được sử dụng để điều trị viêm gan vàng da, rối loạn tiêu hóa.

Những tác dụng này cũng đã được y học hiện đại công nhận và sử dụng. Các nhà khoa học Nhật Bản và Ân Độ đã chứng minh được chất đắng trong diệp hạ châu đắng (phyllathin, hypophyllanthin) có rất nhiều tác dụng chữa bệnh, đặc biệt là khả năng giải độc, khôi phục chức năng bình thường của gan, nên rất tốt trong các trường hợp suy giảm chức năng gan do sử dụng nhiều bia rượu. Những chất này làm gia tăng lượng glutathione – là chất bảo vệ gan thường bị thiếu trầm trọng ở những người thường xuyên sử dụng bia rượu. Bên cạnh đó diệp hạ châu đắng còn có nhiều chất chống oxy hóa thuộc nhóm xanthones, có tác dụng ức chế mạnh quá trình peroxyd hóa lipid ở tế bào gan, do đó hạn chế hiện tượng viêm, hoại tử tế bào gan.

Năm  1995 các nhà khoa học Brazil đã phát hiện ra được tác dụng giảm đau mạnh và bền vững của Diệp hạ châu đắng. Tác dụng này được cho là do acid gallic. Tác dụng này rất có ý nghĩa trong tình trạng viêm gan, tổn thương gan do bia rượu.  

Trước tình trạng bia rượu quá phổ biến và những tác hại khôn lường đến sức khỏe nam giới, xu hướng sử dụng các loài thảo dược giúp bảo vệ gan như Diệp Hạ Châu Đắng cần được nam giới ý thức và toàn xã hội quan tâm.


Diệp hạ châu trị bệnh gan


Viêm gan siêu vi B là một căn bệnh nguy hiểm đang ảnh hưởng đến khoảng 400 triệu người trên thế giới, quá trình điều trị, chữa bệnh bằng tây y rất tốn kém kể cả những phản ứng phụ không thể tránh được. Những năm gần đây, ở Việt Nam rộ lên phong trào sử dụng diệp hạ châu để chữa bệnh gan… Vậy công dụng, hiệu quả như thế nào?

Cây thuốc quý

Diệp hạ châu (DHC) là tên thường gọi của 2 cây Phyllanthus amarus và Phyllanthusnituri thuộc họ thầu dầu (Euphorbiaceae), ở Việt Nam thường được gọi là cây hay cam kiềm, cỏ trân châu, rút đất, diệp hòa thái… Trong dân gian, chúng thường gọi là cây chó đẻ răng cưa vì người ta thường thấy sau khi chó mẹ sinh con, chúng thường tìm đến những cây thuốc này để ăn... DHC cao từ 30 - 60 cm, thân thẳng, lá mọc so le, có nhiều quả hình tròn như hạt ngọc; là cây mọc hoang tại Việt Nam và các nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, có vị đắng, hơi ngọt, tính mát, có tác dụng giải độc, mát gan, giúp sáng mắt, trị phù thũng, ứ nước, ăn uống không tiêu, bụng đầy trướng …

Tán sỏi

DHC là cây thuốc phổ biến được sử dụng từ lâu đời ở Nam Mỹ chủ yếu trị các bệnh sốt rét, phù thũng, cảm cúm, lở loét… Đặc biệt, các vị pháp sư từ xa xưa đã phát hiện tác dụng đặc biệt của DHC là làm tiêu sỏi trong các chứng bệnh sỏi mật, sỏi thận. Họ đặt tên cho DHC là cây tán sỏi. Sau này khoa học đã chứng minh những hoạt chất của DHC có tác dụng gia tăng lượng nước tiểu, ngăn cản sự tạo thành những tinh thể calcium oxalate cũng như giảm kích thước những viên sỏi đã hình thành, giúp tăng tiết mật và dãn cơ.

Giải độc và chữa viêm gan

Viêm gan siêu vi B là một căn bệnh nguy hiểm đã và đang ảnh hưởng đến gần 400 triệu người trên thế giới mà việc chữa chạy bằng tây y rất tốn kém và kèm theo nhiều tác dụng phụ. Việc sử dụng cây cỏ từ thiên nhiên là một giải pháp rất đáng lưu ý, rẻ và cho hiệu quả tốt.

DHC được dùng làm thuốc từ trên 2.000 năm nay. Nhưng giải độc và điều trị viêm gan là một trong những công dụng thu hút được nhiều sự quan tâm nhất ở DHC chỉ mới bắt đầu từ những năm 1980 trở lại đây. Những thử nghiệm lâm sàng trên trẻ em viêm gan truyền nhiễm của Ấn Độ đã cho kết quả hứa hẹn sau 30 ngày uống DHC (900 mg/ngày), 50% yếu tố lây truyền trong máu của virus viêm gan B (sinh kháng thể của bề mặt viêm gan B) đã mất đi. Nghiên cứu của các nước Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam…, cho thấy tác dụng điều trị bệnh gan, viêm gan siêu vi mãn là do Phyllanthin, Hypophyllanthin và Tricacontanat giúp phục hồi chức năng gan và ức chế sao chép siêu vi B.

tac-dung-chua-benh-cua-cay-diep-ha-chau-cay-cho-de-6

Cây diệp hạ châu, còn gọi là cây chó đẻ răng cưa. Ảnh: INTERNET

Hiện nay, trên thị trường có nhiều sản phẩm DHC dưới dạng thuốc viên, thuốc bột hoặc được sản xuất dưới hình thức trà uống tiện dụng. DHC có 2 loại: đắng và ngọt, loại đắng có chứa nhiều chất chống ô xy hóa có tác dụng kích thích tiêu hóa, tăng tiết mật, giải độc gan, điều trị viêm gan siêu vi B cao hơn loại ngọt. Trong thực tế, DHC sử dụng với một số thảo dược khác làm tăng tác dụng chữa bệnh. Tuy nhiên, sử dụng riêng DHC cũng chữa khỏi viêm gan với liều dùng từ 900 - 2.700 mg (dạng bột) trong 3 tháng liên tục hoặc dùng 10 - 20 g loại đã sấy khô, chế biến thành trà pha với 1.000 ml nước nấu sôi, dùng trong ngày.

Muốn việc điều trị bệnh gan bằng DHC đạt hiệu quả cao, bản thân người mắc bệnh gan phải bỏ hẳn rượu, bia; thực hiện việc phối hợp của chế độ ăn ít mỡ, nhiều rau củ quả, trái cây và năng vận động, tập luyện thể thao, đi bộ…



Comments