Tùy vào số cân nhiều hay ít mà mỗi nhà quy ra thóc hay trả phần tiền tương ứng cho gia chủ. Lợn đánh đụng thường là những chú lợn còi từ đàn lợn con của nhà nào đó, bị thương lái chê, không mua hoặc giả rẻ.
Giá bèo thế thì để Tết đánh đụng cho vui! Lợn đụng vì thế thường non, nạc và chắc thịt. Nếu năm nào "không may" chẳng có lợn còi, người ta vẫn dành lại một con lợn ưng ý nhất để Tết đến lại gọi anh em, hàng xóm láng giềng sang đụng, cốt cho vui, đầm ấm, chứ tuyệt nhiên không nặng đắt, rẻ, lỗ, lãi.
Lợn được xẻ thịt trước Tết độ hai ngày, để kịp lấy thịt gói bánh chưng, làm giò chả và nấu đông. Lúc đó, không khí Tết mới thật là rộn ràng. Cả chục người nói cười rôm rả. Cánh đàn ông người đun nước, người cạo lông, người làm lòng. Phụ nữ thì chuẩn bị muối mắm, rổ rá, lá chuối đựng phần. Đám trẻ con bắng nhắng chạy quanh, tranh nhau xí phần đuôi với bong bóng lợn.
Thế là đã có thịt gói bánh chưng. Tối lại được ngồi quanh lò than, canh nồi luộc bánh, hít hà cái mùi lá dong tỏa ra ngai ngái, mùi gạo nếp thơm, mùi thịt béo ngậy. Trong khi trông bánh, tranh thủ đút vào lòng bếp mấy củ khoai lang, khoai tây hay bắp ngô.
Giữa cái rét ngọt của tháng củ mật, ngồi bên bếp than hồng, cời từ trong lò củ khoai vừa chín, lơm lựng, nóng hổi, cứ phải chuyển từ tay này sang tay kia cho bớt nóng, vừa thổi, vừa bóc, vừa ăn, vừa hít hà mới thấy khoai nướng sao mà ngon đến thế.
Sự quây quần, sum tụ đông vui khi đụng lợn vì thế như khúc nhạc dạo đầu cho Tết, không khí tưng bừng và háo hức. Cũng ở đây, nét đặc trưng văn hóa của người Việt được thể hiện rất rõ: văn hóa làng xã. Nói như giáo sư, Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, nhà văn hóa học hàng đầu Việt Nam, thì “đặc trưng văn hóa điển hình nhất của Tết Cả [Tết Nguyên đán – PV] là nếp sống cộng đồng. Tết đến, người ta lại tìm hàng xóm, bạn bè, họ hàng… để chung nhau giết lợn.”
Đời sống của xứ đồng bằng chiêm trũng, gắn với mùa màng lúa nước, cần nhiều nhân lực và bội thu hay thất bát đều phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên đã kéo người ta xích lại gần nhau, đoàn kết với nhau: “Bán anh em xa mua láng giềng gần”; “hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”; “cả bè hơn cây nứa”; “tướng chuộng nhiều quân, dân chuộng nhiều người”…
Thế nên, người Việt làm gì cũng quây quần, cũng sum tụ đông người. Cô Màu chửa hoang, phải chịu phạt cho “cả làng ăn khoán”. “Ăn khoán” cũng không diễn ra ở nhà cô Màu mà phải ở giữa đình. Từ ăn uống đến hát hò đều ở cái không gian cộng đồng ấy. Đến thứ rất cần cho sinh hoạt hàng ngày là giếng nước cũng phải cả làng chung nhau một cái.
Và người ta đi đâu, làm gì cũng ít khi đi một mình mà thường rủ nhau.
Họ rủ nhau đi làm:
“Rủ nhau lên núi hái chè
Hái dăm ba ngọn, xuống khe ta ngồi”
Rủ nhau đi chợ:
“Chợ Bưởi một tháng sáu phiên
Rủ nhau đi chợ nên duyên đèo bòng”
Và thấy món ngon gì cũng rủ nhau mua:
“Rủ nhau mua tép Trà Ô
Sẵn bờ cát trắng, phơi khô đem về”
Í ới gọi nhau đi chơi:
“Rủ nhau xem cảnh kiếm hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn”
Đến đi “kiếm chút chồng” cũng phải chèo kéo bạn bè:
“Rủ nhau đi cấy xứ Đông
Gọi là đi kiếm chút chồng mà thôi”
Người làm ruộng thì “rủ nhau đi cấy đi cày”, kẻ làm thương lái thì “buôn có bạn, bán có phường”. Biểu tượng của tính cộng đồng, của tình đoàn kết ấy là hình ảnh cây tre với “thân gầy guộc lá mong manh” nhưng bao giờ cũng sát cánh bên nhau “nên lũy nên thành”.
Chính nếp sống cộng đồng đó đã là thành trì vững chắc để bảo vệ Tổ quốc khỏi bao phen nhòm ngó của nước láng giềng Trung Hoa. Nếp sống cộng đồng ấy cũng làm cho tính tương thân tương ái, đoàn kết tương trợ trở thành một nét đẹp trong tâm hồn Việt: “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “chị ngã em nâng”, “lá lành đùm lá rách”...
Trong những ngày tháng 10/2010 vừa qua, khi miền Trung chìm trong lũ lụt đau thương, hàng triệu người dân cả nước đã đồng lòng hướng về rốn lũ, hàng nghìn chuyến xe cứu trợ đã mang bát cơm, manh áo đến với đồng bào đang trong cơn hoạn nạn khó khăn.
Và khi giá rét đang bao phủ khắp miền Bắc, lan tới cả miền Nam, những tấm chăn bông, manh quần, tấm áo đã được rất nhiều đội thiện nguyện gom lại, mang lên vùng cao, đem hơi ấm đến cho những mái nhà tranh tre nứa lá lồng lộng gió rét căm căm của đồng bào các tỉnh miền núi phía Bắc.
Càng cận Tết, những phần quà lại được gói vội vàng hơn để kịp chuyển đến với những bé trong Bệnh viện Nhi, những em nhỏ mồ côi nơi chùa Bồ Đề, những gia đình nghèo miền biên viễn…
Tinh thần tương thân tương ái ấy đã trở thành một phần của tính cách con người Việt, được hun đúc từ nghìn năm, qua lời mẹ dạy “bầu ơi thương lấy bí cùng”, và qua cả những Tết nhà nhà chung nhau đụng lợn.
Và có lẽ, cũng vì đã thành một phần của tính cách con người Việt, nên ngày nay, dù đời sống người dân đã được nâng lên rất nhiều, xã hội hiện đại cũng khiến cái tôi cá nhân lớn mạnh hơn, nhưng Tết đến, nơi những làng quê Việt, người dân vẫn rôm rả cùng đụng lợn. Năm nào người ta cũng í ới gọi nhau: Này, làm một góc nhé?./.