Chảy máu sau sinh: Nguyên nhân và cách theo dõi
(Giúp bạn)Chảy máu sau đẻ là một tai biến sản khoa thường gặp tuy không nhiều như nhiễm khuẩn nhưng dễ gây tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời.
Theo Sức khỏe và đời sống, bình thường khi chuyển dạ và trước khi thai xổ, thai phụ có thể ra ít máu (từ âm đạo) do cổ tử cung bị rạn nứt khi mở. Sau khi thai xổ thường có ít máu từ tử cung ra và sau khi rau xổ, máu từ vùng rau bám chảy ra. Lượng máu mất trong suốt thời kỳ đẻ và xổ rau thường chỉ 300ml, ta gọi là chảy máu sinh lý. Nếu lượng máu chảy quá 500ml là bệnh lý cần xử lý kịp thời. Tuy nhiên, giai đoạn này, phụ nữ cần được chăm sóc đặc biệt, nếu không rất dễ mắc một số bệnh lý được gọi là bệnh hậu sản (bệnh mắc phải trong thời kì hậu sản).
(Ảnh minh họa)
Trong đó có bệnh băng huyết, đây là tai biến sản khoa hay gặp nhất sau sinh (nguy cơ cao nhất trong 24h sau khi sinh) và là một nguyên nhân chính gây tử vong cho sản phụ.
Theo thông tin trên trang thông tin điện tử Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết, triệu chứng chung của các trường hợp này là chảy máu nhiều ngay sau khi đẻ thai và sổ rau. Khi máu ra nhiều, sản phụ có thể bị choáng, xanh nhợt, mạch nhanh, huyết áp hạ, khát nước, chân tay lạnh, vã mồ hôi…
Tùy từng nguyên nhân (đờ tử cung, sót rau, rách đường sinh dục…) mà có thêm những triệu chứng đặc trưng khác. Phải có biện pháp can thiệp kịp thời và thích hợp cho từng trường hợp.
Một số nguyên nhân dẫn đến chảy máu sau sinh:
- Cơ tử cung yếu do đẻ nhiều lần, tử cung có sẹo mổ, u xơ tử cung, tử cung dị dạng; tử cung bị căng giãn quá mức vì đa thai, đa ối, thai to;
- Chuyển dạ kéo dài; nhiễm khuẩn ối;
- Sót rau trong buồng tử cung;
- Sản phụ suy nhược, thiếu máu, cao huyết áp, nhiễm độc thai nghén.
- Tiền sử xảy, nạo, hút thai nhiều lần;
- Từng bị sót rau viêm niêm mạc tử cung;
- Sau đẻ non, đẻ thai lưu.
- Đẻ nhanh, đặc biệt ở tư thế đứng;
- Dây rau ngắn, cuốn cổ nhiều vòng; lấy rau không đúng quy cách;
- Đỡ đẻ không đúng cách, cổ tử cung chưa mở hết mà sản phụ đã rặn.
Băng huyết là một tai biến hết sức nguy hiểm, nếu chị em thấy mình ra máu nhiều sau khi sinh hay gặp các triệu chứng trên, cần thông báo ngay cho bác sĩ biết.
Nhận biết vị trí chảy máu sau đẻ
Máu có thể chảy từ nhiều vị trí khác nhau của bộ phận sinh dục nên ta cần tìm đúng nguyên nhân để xử trí:
Chảy máu do rách tầng sinh môn, âm đạo, âm hộ: thường máu chảy ra màu đỏ tươi, chưa kịp đông, nhìn thấy ngay vết rách và chỗ chảy máu.
Chảy máu do rách cổ tử cung: máu đỏ tươi chảy ra từ âm đạo, ta phải đặt van âm đạo và dùng hai kẹp hình tim kéo cổ tử cung ra ngoài mới nhìn thấy chỗ rách.
Chảy máu do rau không bong: máu tươi lẫn cục ra nhiều nhưng ấn đáy tử cung rau vẫn không bong.
Chảy máu do sót rau, sót màng: sau khi rau ra, máu tiếp tục chảy qua âm đạo, mỗi lần ấn đáy tử cung lại thấy máu tươi và máu cục.
Chảy máu do đờ tử cung: sau khi rau ra, tử cung không co hồi mà vẫn mềm nhão, máu tươi và cả máu cục ra nhiều.
Thường gặp ở sản phụ đẻ nhiều lần cơ tử cung mất tính đàn hồi, gặp ở người đẻ sinh đôi, đa ối do cơ tử cung bị giãn quá mức khi có thai nên co hồi không tốt, còn gặp ở sản phụ chuyển dạ lâu, cơ tử cung mệt mỏi không co hồi được, đôi khi còn gặp ở người thể trạng suy kiệt do một bệnh toàn thân.
Hãn hữu gặp trường hợp chảy máu sau đẻ do rau bong quá sớm hoặc bong không hoàn toàn do nữ hộ sinh kéo vào cuống rau hoặc ấn đáy tử cung một cách thô bạo.
Cuối cùng cũng đừng quên chảy máu sau đẻ có thể do vỡ tử cung, bong rau non... là những bệnh lý xảy ra trong khi đẻ nhưng đẻ xong máu mới chảy ra ngoài.
Cách theo dõi chảy máu sau đẻ
Để xác định tình trạng chảy máu, cần theo dõi lượng máu chảy ra ngoài âm đạo (nên cho sản phụ nằm trên một săng vải hấp màu trắng để tiện theo dõi). Chú ý các trường hợp chảy máu ri rỉ nhưng liên tục và ước đoán khối lượng máu chảy bằng cách cân số lượng máu chảy ra ngoài.
Theo dõi tử cung, thấy tử cung quá to, quá mềm. Cuối cùng phải dựa vào thể trạng chung để phát hiện các máu chảy trong tử cung (máu không ra ngoài): sản phụ vật vã, hốt hoảng hoặc nằm li bì, mặt tái, chân tay lạnh, thở nông, mạch nhanh, huyết áp hạ.
Điều chủ yếu là phải theo dõi sát sản phụ sau đẻ để khi phát hiện lượng máu mới chảy với khối lượng còn ít để việc điều trị được kịp thời và có hiệu quả.
Nếu để tới khi mất máu trên 500ml và thể trạng chung đã xấu mới phát hiện được thì việc điều trị trở thành khó khăn, dễ dẫn tới tử vong.
Tham khảo thuốc: Vitamin B9 Việc bổ sung acid folic phải được thực hiện dưới sự theo dõi chặt chẽ của các bác sĩ trong điều trị thiếu máu ác tính nguyên hồng cầu khổng lồ. Vì triệu chứng thiếu acid folic dễ che lấp triệu chứng thiếu hụt B12 nên thường người ta dùng B12 trước để điều trị thiếu máu ác tính, nếu không hiệu quả sẽ chuyển sang dùng acid folic. |
Tú Liên
Theo GDVN