Hiểu đúng về bệnh tăng huyết áp

15:45 14/04/2015

(Giúp bạn)Tăng huyết áp là một thuật ngữ y tế chỉ bệnh cao huyết áp, còn hạ huyết áp là huyết áp thấp, và cả hai đều rất nguy hiểm.

"Số đo huyết áp như số tuổi của mình"

VietNamnet cho biết, theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã có khoảng 1,5 tỷ người trên thế giới bị Tăng huyết áp (THA) và có tới 7.5 triệu người tử vong do nguyên nhân trực tiếp là THA trên toàn cầu.

Ngay ở Việt Nam, theo một điều tra gần đây nhất của Viện Tim mạch Việt Nam tại 8 tỉnh/thành phố của nước ta thì tỷ lệ THA của những người từ 25 tuổi trở lên đã là 25,1%! Nghĩa là cứ 4 người trưởng thành thì có 1 người bị THA.

Báo cáo về sức khoẻ hàng năm của Tổ chức Y tế thế giới nhấn mạnh: THA là “kẻ giết người số một” với nguy cơ tử vong cao gấp 5 lần nguy cơ từ hút thuốc lá và cao gấp 100 lần so với nguy cơ tử vong vì tai nạn từ lái ô tô.

Nguy hiểm là vậy nhưng THA lại là căn bệnh diễn tiến âm thầm, ít có dấu hiệu cảnh báo. Những dấu hiệu của THA thường không đặc hiệu và người bệnh thường không thấy có gì khác biệt với người bình thường. Nhiều khi, bệnh nhân thấy có triệu chứng đau đầu xuất hiện thì ngay tiếp theo đó cũng là những giây phút cuối cùng của cuộc đời do họ đã bị xuất huyết não nặng nề.

Hiểu hơn về huyết áp

Sức khỏe và Đời sống cho biết, huyết áp (HA) là áp lực máu lưu thông tác động lên thành mạch. Huyết áp tối đa (HA tâm thu) là khi tim bóp tống máu (bình thường khoảng 120mmHg), huyết áp tối thiểu (HA tâm trương) là khi tim giãn (bình thường khoảng 80mmHg).

Tất cả các hướng dẫn điều trị tăng huyết áp (THA) trên thế giới đều chọn ngưỡng gọi là THA đối với người từ 18 tuổi trở lên khi người đó có ít nhất một trong hai số huyết áp sau:(1) HA tối đa lớn hơn hoặc bằng 140mmHg và/hoặc (2) HA tối thiểu lớn hơn hoặc bằng 90mmHg.

Như vậy, nếu con số HA là 150/80, 130/100 hoặc 150/90mmHg… sau nhiều lần đo thì đều gọi là THA.Một số khuyến cáo về chẩn đoán THA gần đây còn lưu ý rằng, THA là một hội chứng tim mạch tiến triển được khẳng định khi: (1) HA đo tại cơ sở y tế lớn hơn hoặc bằng 140/90mmHg hoặc khi đo tại nhà và khi theo dõi HA lưu động 24 giờ lớn hơn hoặc bằng 135/85mmHg hoặc (2) chỉ số HA không tăng nhưng có bằng chứng của THA như đang dùng thuốc hạ HA hoặc có biến chứng như bệnh tim do THA, tai biến mạch máu não...T

HA được chia làm hai loại là THA nguyên phát và THA thứ phát, trong đó THA nguyên phát (THA không rõ nguyên nhân) chiếm đến 93 - 95%.

Còn THA thứ phát là từ một nguyên nhân nào đó, chẳng hạn do: U tủy thượng thận; U lớp cầu của vỏ thượng thận; Hẹp động mạch thận; Hẹp eo động mạch chủ; Hở van động mạch chủ; Viêm cầu thận mạn, sỏi thận; Sử dụng một số loại thuốc làm tăng giữ muối và nước trong cơ thể...

Ở những trường hợp THA không rõ nguyên nhân, người ta nghĩ đến nhiều yếu tố nguy cơ có thể phối hợp với nhau gây THA như: tuổi tác cao, nam giới, yếu tố di truyền (cha mẹ mắc bệnh THA, sẽ có một tỷ lệ con cũng bị THA), béo phì, tiểu đường, hút thuốc lá, ít vận động, stress, thói quen ăn mặn...

Điểm khác biệt là THA có nguyên nhân thì có thể điều trị triệt để được, ví dụ THA do hẹp động mạch thận thì sau khi nong động mạch bị hẹp, HA có thể trở về mức bình thường, không phải uống thuốc lâu dài.Việc đo kiểm tra HA thường xuyên là cách đơn giản nhất, duy nhất để phát hiện sớm THA.

Để đo HA, người được đo cần được nghỉ khoảng 5 phút trước khi đo; không sử dụng các chất kích thích trước đó 2 giờ (rượu, thuốc lá, cà phê…); không dùng thuốc cường giao cảm (như một số thuốc nhỏ mũi)...

Khi thấy xuất hiện các triệu chứng sau thì nên đo HA, đó là: nhức đầu (thường là sau gáy); xây xẩm; hồi hộp; dễ mệt; bất lực (ở nam giới); mờ mắt; dễ toát mồ hôi; yếu nửa người hay một chi; đau ngực; khó thở; tiểu nhiều; dễ xúc động; tăng cân...

Với người lớn, dù trong người thấy bình thường nhưng cũng cần kiểm tra định kỳ số đo huyết áp.Cần thay đổi hành vi, lối sống không có lợi cho sức khỏe như hút thuốc lá, uống rượu, bia quá độ…; chế độ dinh dưỡng cần giảm muối, bớt mỡ, tăng cường rau, quả, trái cây tươi; vận động thể lực đều đặn... là biện pháp hữu hiệu để phòng chống bệnh THA.

Tham khảo thuốc: Clonidin

Làm hạ huyết áp do: Làm giảm công năng tim, giảm nhịp tim. Làm giảm sức cản ngoại biên, nhất là khi trương lực giao cảm tăng. Làm giảm sức cản mạch thận, duy trì dòng máu tới thận. Như methyl dopa, clonidin rất ít khi gây tụt huyết áp thể đứng.

Các tác dụng không liên quan đến hạ huyết áp: An thần (do huỷ giao cảm trung ương?) khoảng 50% trường hợp. Khô miệng do cơ chế trung ương: khoảng 50% trường hợp. Giảm đau do giảm hoạt tính nơron sừng sau tuỷ sống.

Linh Chi

Nên đọc
-1 Chế độ dinh dưỡng khiến trẻ dậy thì sớm
-2 Những thực phẩm là "Viagra" tự nhiên cho đàn ông
-3 Phát hiện sớm ung thư dương vật
-4 Cho trẻ bị viêm đường hô hấp ăn uống như thế nào?


Theo GDVN

Comments