Bệnh lỵ trực khuẩn: Các thể bệnh và chẩn đoán bệnh

15:48 14/04/2015

(Giúp bạn)Bệnh lỵ trực khuẩn lây qua đường tiêu hóa, do vi khuẩn Shigella gây ra. Tính chất nguy hiểm của lỵ trực khuẩn là có thể lây thành dịch.

Nhiều thể bệnh lỵ trực khuẩn

Theo Cổng thông tin điện tử Bộ Y tế, một người bị nhiễm vi khuẩn lỵ, thì thời gian ủ bệnh từ 1 - 7 ngày, sẽ phát bệnh một cách đột ngột, với 2 hội chứng: nhiễm khuẩn và hội chứng lỵ.

Hội chứng nhiễm khuẩn gồm các triệu chứng: sốt cao 38 - 39oC, rét run, nhức đầu, mệt mỏi, đau lưng, đau khớp, ở trẻ em có thể có cơn co giật, chán ăn, khát nước, đắng miệng, buồn nôn hoặc nôn.

Hội chứng lỵ. gồm các triệu chứng: đau bụng, ban đầu đau âm ỉ quanh rốn, sau đau lan ra khắp bụng, cuối cùng là những cơn đau quặn bụng ở hố chậu trái. Các cơn đau quặn bụng làm bệnh nhân mót rặn muốn đi đại tiện ngay. Mới đầu phân sệt, sau loãng, rất thối, lẫn với nhầy và máu. Hoặc phân nhầy nhiều, thường đục nhờ nhờ, có khi phân vàng đục như mủ, máu sẫm như máu cá, nhầy và máu hòa loãng với nhau không có độ bám dính. Hội chứng lỵ có thể diễn ra từ 5 - 10 ngày hoặc hơn.

Trên thực tế người ta phân chia bệnh lỵ thành các thể bệnh như sau:

- Thể nhẹ : bệnh nhân có hội chứng nhiễm khuẩn nhẹ hoặc không rõ, thân nhiệt 37,5 - 38oC, hơi mệt, có hội chứng lỵ : đau quặn bụng, đi ngoài dưới 10 lần/ngày, bệnh nhân phục hồi trong vòng 1 tuần.

- Thể vừa: bệnh nhân có hội chứng nhiễm khuẩn và hội chứng lỵ điển hình. Sốt 38 - 40oC kéo dài từ 1 - 4 ngày, đau đầu, mệt mỏi, mạch nhanh, huyết áp hạ. Đi tiêu chảy từ 15 - 20 lần/ngày, kèm theo dấu hiệu mất nước, với biểu hiện khát nước, môi khô. Điều trị tốt, bệnh nhân sẽ phục hồi sau 7 - 14 ngày.

- Thể nặng: hội chứng nhiễm khuẩn rõ rệt, kéo dài hơn 1 tuần. Hội chứng lỵ: đau quặn bụng dữ dội, mót rặn kèm mót đái không kìm được, đi tiêu chảy trên 30 lần/ngày, có khi không đếm được. Bệnh nhân bị mất nước, rối loạn điện giải, kiệt sức, nằm đại tiện tại chỗ, hậu môn mở rộng, phân tự chảy, mắt trũng, mặt hốc hác, mạch nhanh yếu, tiếng tim mờ, huyết áp hạ, thở gấp, li bì, ngủ gà, có thể tử vong sau 3 - 7 ngày. Nếu điều trị thì sự phục hồi chậm và dễ biến chứng.

Ở trẻ dưới 1 tuổi, ngoài những thể cấp như trên, còn gặp thể rất nhẹ, kín đáo, như rối loạn tiêu hóa: phân loãng, không sốt. Thể bệnh lỵ mạn tính: bệnh có những thời kỳ bột phát và thuyên giảm xen kẽ.

- Thể dạ dày ruột cấp: bệnh nhân có hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc thức ăn, nôn nhiều lần, phân loãng, không có nhầy máu, đau bụng lan tỏa, sau đó bệnh có thể diễn biến như thể lỵ điển hình.

- Thể tối độc: bệnh nhân đi ngoài nhiều, phân có nhầy mủ, có khi toàn máu, có thể tử vong trong vài ngày đầu do hôn mê, trụy tim mạch.

Ở người cao tuổi, có thể bệnh lỵ kéo dài không còn giai đoạn thuyên giảm, bệnh càng ngày càng nặng, toàn thân suy sụp dần, rối loạn tiêu hóa nặng, thiếu vitamin, thiếu máu.

Chẩn đoán bệnh lỵ trực trùng Shigella dysenteriae

1. Chẩn đoán xác định ca bệnh

Sức khỏe & đời sống cho biết, phân lập được vi khuẩn Shigella trong mẫu phân hoặc phết trực tràng ở bệnh nhân có hội chứng lỵ và hội chứng nhiễm khuẩn.

- Loại mẫu bệnh phẩm: mẫu bệnh phẩm thường là phân tươi hoặc phết trực tràng. Nếu là phết trực tràng cần giữ trong môi trường chuyên chở Cary Blair trước khi chuyển đến phòng xét nghiệm.

- Phương pháp xét nghiệm: Cấy phân. Nuôi cấy định danh vi khuẩn và ngưng kết kháng huyết thanh.

- Những xét nghiệm khác:

+ Soi trực tràng: Ca điển hình không cần soi trực tràng. Tổn thương đại tràng do lỵ trực trùng là hình ảnh viêm lan tỏa cấp tính niêm mạc, có nhiều vết loét cạn, cần lấy chất nhày tại chỗ để cấy tìm vi khuẩn.

-1

+ Huyết thanh chẩn đoán: Phản ứng ngưng kết phát hiện kháng thể trong huyết thanh bệnh nhân nặng và có sốt nhưng không có giá trị chẩn đoán sớm.

+ Phương pháp miễn dịch huỳnh quang trực tiếp để nhận diện Shigella ở phân tươi cần có kháng huyết thanh đa giá. Trên thực tế, chỉ dùng kháng huyết thanh đơn giá để chẩn đoán bệnh nhanh khi có dịch ở địa phương do một týp huyết thanh đã biết trước.

+ Công thức máu: ít có giá trị chẩn đoán. Bạch cầu thường tăng trong khoảng từ 5.000-15.000/mm3 với tỉ lệ bạch cầu đa nhân trung tính chiếm ưu thế.

2. Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh tương tự

- Phân biệt lỵ a-míp và lỵ trực trùng (xem phần lỵ a-míp).

- Lồng ruột, thoát vị nghẹt ở trẻ con: không sốt, bụng chướng, tăng nhu động, bí trung đại tiện, dấu hiệu rắn bò.

Phương pháp điều trị bệnh lỵ trực khuẩn

Điều trị bệnh lỵ trực khuẩn cần phải cách ly bệnh nhân, dụng cụ đều phải dùng riêng.

Bù nước và điện giải là biện pháp hàng đầu trong điều trị lỵ trực khuẩn.

- Thể vừa, bù dịch và điện giải bằng cách uống dung dịch oresol.

- Thể nặng cần truyền dịch. Trợ lực dùng vitamin B1, C. Chống đau bụng bằng cách chườm nóng, ngâm mông trong nước ấm để chống đau rát hậu môn.

Thuốc có thể dùng gồm: kháng sinh như loại cephalosporin thế hệ 3 (Ceftriaxon), Quinolone thế hệ 1 (Acid nalidixic) hoặc ciprofloxacine, ofloxacine rất hiệu quả.

Về chế độ ăn: bệnh nhân chỉ hạn chế trong một vài ngày đầu, sau đó cần trở lại chế độ ăn bình thường từ ngày thứ ba, thứ tư trở đi. Bệnh nhi là trẻ còn bú, vẫn cho bú như thường lệ. Nếu trẻ đang bú sữa bình vẫn cho bú bình thường, không hạn chế số lần uống, số lượng sữa. Đối với trẻ lớn và người lớn, trong vài ngày đầu ăn cháo ninh nhừ, nấu với thịt. Sang ngày thứ ba, thứ tư nên ăn cháo đặc với thịt, trứng, khoai tây nghiền, sữa chua, sau đó ăn cơm nát, thịt nạc luộc, uống nước hoa quả. Nên tránh thức ăn nhiều bã, thảo mộc khô.

Tham khảo thuốc:

Paracetamol: là chất chuyển hóa có hoạt tính của phenacetin, là thuốc giảm đau - hạ sốt hữu hiệu có thể thay thế aspirin; tuy vậy, khác với aspirin, paracetamol không có hiệu quả điều trị viêm.

Trà Mi

Nên đọc
-2 Hít keo con chó: Trò chơi chết người
-3 Cách ngăn ngừa chứng rối loạn mỡ máu
-4 Những thực phẩm gây rối loạn mỡ máu
-5 Công dụng của sầu riêng đối với sức khỏe

Theo GDVN

Comments