Hội chứng Stevens Johnson
(Giúp bạn)Hội chứng Stevens Johnson (tên của hai bác sĩ mô tả đầu tiên bệnh lý này) là một bệnh lý tuy hiếm gặp nhưng xảy ra rất trầm trọng có thể nguy hiểm tính mạng.
Đôi nét về hội chứng Stevens Johnson
Thông tin trên trang tin điện tử Sở Y tế Khánh Hòa, bác sĩ (BS) Phan Thế Long, Phó Trưởng khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) tỉnh Khánh Hòa cho biết, hội chứng Stevens Johnson là một trong những bệnh rất hiếm gặp, thường 1.000 ca mới gặp 1 ca, nhưng đây lại là một bệnh rất nguy hiểm và khó điều trị.
Cũng theo Sức khỏe & đời sống, hội chứng Stevens Johnson hay hoại tử thượng bì nhiễm độc hoặc hội chứng Lyell là căn bệnh nguy hiểm đe dọa trực tiếp đến tính mạng. SJS được đề cập lần đầu tiên vào năm 1922, và chính thức phân loại năm 1993 bằng tên gọi hội chứng Stevens Johnson và hội chứng chồng chéo SJS/TEN.
Căn bệnh không rõ nguyên nhân, đặc trưng bằng tổn thương da và niêm mạc tróc vẩy. Nếu độ tổn thương biểu mô dưới 10% diện tích da được xếp là bệnh SJS và trên 30% diện tích da được xếp vào dạng TEN (Toxic Epidermal Necrolysis). Nếu tổn thương chiếm 10 đến 30% diện tích da thì được xếp vào hội chứng chồng chéo SJS/TEN, tỷ lệ mắc bệnh khoảng 2,6 ca/1 triệu người mỗi năm. Tại Mỹ, mỗi năm có khoảng 300 ca được chẩn đoán mới, phần lớn rơi vào nhóm người trưởng thành, trong đó phụ nữ mắc bệnh nhiều hơn nam giới.
Hội chứng TEN là do thuốc, còn SJS lại có liên quan tới nhiễm trùng cũng như do dùng thuốc, do tiêm vắc-xin, huyết thanh, nhiễm vi-rút (Herpes), yếu tố di truyền, các bệnh nhiễm khuẩn (viêm phổi, viêm màng não, viêm não, nhiễm khuẩn răng miệng), do các loại bệnh ký sinh trùng, sốt rét, trùng roi, nhiễm nấm, bệnh tạo keo (Lupus ban đỏ), rối loạn nội tiết, có thai hoặc rối loạn kinh nguyệt.
Hội chứng SJS có thể được xem là tác dụng phụ của các loại thuốc phổ biến như: sulfonamide, thuốc kháng sinh penicillin, cefixime (kháng sinh), thuốc an thần (thuốc giảm đau), lamotrigine, phenytoin (thuốc chống co giật) và trimethoprime. Dùng kết hợp lamotrigine với với sodium valproate cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc hội chứng SJS. Cả hai dạng bệnh này đều khởi phát bằng hiện tượng sốt giống cúm, kéo dài vài ba ngày trước khi xuất hiện các tổn thương da và niêm mạc. Sau đó các tổn thương da đặc trưng dạng mụn nước và bọng nước xuất hiện và tiến triển qua một vài ngày, tiếp theo là bong tróc.
Riêng ở trẻ em, nguyên nhân phổ biến gây bệnh SJS và TEN là nhiễm trùng, như nhiễm trùng đường hô hấp trên, viêm tai giữa, viêm họng, và do virút Epstein-Barr, Mycoplasma pneumoniae và nhiễm cytomegalovirus. Việc sử dụng thường xuyên các loại thuốc kháng sinh, thuốc hạ sốt và giảm đau để kiểm soát nhiễm trùng có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ở nhóm người trẻ tuổi.
Theo tiến sĩ Joshua Zeichner, giáo sư da liễu tại bệnh viện Mount Sinai ở Manhattan, Mỹ thì hội chứng Stevens Johnson như trường hợp Castanada mắc phải ở trên là do phản ứng thuốc, nhất là nhóm thuốc hạ sốt, an thần, đặc biệt là nhóm kháng sinh Penicillin, Sunfamides, nhất là khi tự ý sử dụng không qua tư vấn của bác sĩ.
Chẩn đoán SJS hoặc TEN dựa vào lâm sàng, các biểu hiện mô học trên sinh thiết da chỉ hỗ trợ cho chẩn đoán chứ không phải là tiêu chuẩn tiên quyết. Chẩn đoán gồm nhận biết hồng ban đa dạng (erythema multiforme), các loại phản ứng trầm trọng khác với thuốc, nhất là độc tố của vi khuẩn, chẳng hạn như hội chứng sốc nhiễm độc, hội chứng bỏng da do tụ cầu và bệnh Kawasaki.
Hội chứng hoại tử thượng bì nhiễm độc rất dễ nhầm với các bệnh như: chứng ly thượng bì do tụ cầu, các chứng bệnh da có bọng nước và bệnh bỏng, thậm chí cả bệnh thủy đậu hay bệnh tay-chân-miệng.
Thông thường nếu không có biến chứng, các tổn thương thường sẽ hồi phục hoàn toàn và bệnh nhân sẽ được ra viện trong vòng hai đến bốn tuần. Trước tiên, người bệnh nên dừng ngay thuốc nếu nghi ngờ phát bệnh và được điều trị tại các cơ sở hồi sức cấp cứu để loại bỏ tổ chức hoại tử, sát khuẩn tổn thương da niêm mạc bằng kháng sinh tại chỗ ít gây dị ứng, đắp tổn thương da với các loại gạc sinh học và tách dính ở mắt, vệ sinh bộ phận sinh dục, vệ sinh răng miệng họng bằng các dung dịch sát khuẩn nhiều lần, nhất là sau các bữa ăn.
Tất cả các giải pháp này đều nhằm giảm đau, hạn chế lượng tiết dịch, giảm nhiễm trùng và đẩy nhanh quá trình hồi phục. Nếu nặng nên được điều trị tại các bệnh viện, trung tâm bỏng và dùng thuốc theo phác đồ của bác sĩ.
Tham khảo thuốc: Paracetamol: Là chất chuyển hóa có hoạt tính của phenacetin, là thuốc giảm đau - hạ sốt hữu hiệu có thể thay thế aspirin; tuy vậy, khác với aspirin, paracetamol không có hiệu quả điều trị viêm. |
Trà Mi
Theo GDVN