Thận trọng với thuốc trị đau thắt ngực

15:25 14/04/2015

(Giúp bạn)Glyceryl trinitrat là một thuốc dùng trong đau thắt ngực, thuốc có tác dụng thay đổi theo liều lượng, dạng bào chế...

Theo Wikipedia, đau thắt ngực (ĐTN) thường được xem là triệu chứng điển hình và đặc trưng, nguy hiểm trong bệnh mạch vành và nhồi máu cơ tim.

Triệu chứng của con đau thắt ngực

+Cơn đau thắt ngực ổn định:

Biểu hiện: có cảm giác bó chặt, thắt nghẹt, đè ép hay đôi khi chỉ là cảm giác khó chịu trong ngực, có thể kèm theo khó thở. Đau có thể lan lên cổ, ra hàm, ra cánh tay, thường gặp nhất là lan ra bên trái. Đôi khi đau ở vùng thượng vị. Có trường hợp đau lan ra sau lưng, đau vùng cột sống làm người bệnh tưởng lầm là đau do thoái hóa cột sống thắt lưng.

Vị trí đau: thường ở vùng giữa ngực, sau xương ức hay vùng trước tim.

+Cơn đau thắt ngực không ổn định:

Biểu hiện: cảm giác đau ngực rất khác nhau giữa các cá thể. Nhiều bệnh nhân nhập viện không phải vì đau thắt ngực mà chỉ vì cảm giác khó chịu ở trong ngực. Cơn đau thường kéo dài hơn 20 phút, có thể trội lên hay thuyên giảm đi từng lúc.

Cơn đau thường xuất hiện khi nghỉ hay gắng sức nhẹ. Có thể kèm theo các triệu chứng khác như buồn nôn, nôn, vã mồ hôi, mệt mỏi không giải thích được.

Người già, đặc biệt là phụ nữ lớn tuổi, bệnh nhân bị tiểu đường có thể bị đau thắt ngực không ổn định mà không có triệu chứng đau ngực.

Vị trí đau: thường xuất hiện sau xương ức hay vùng trước tim, có thể lan ra vùng cổ, hàm, vùng liên bả vai, chi trên, vùng thượng vị.

-1

Sử dụng thuốc điều trị đau thắt ngực

Sức khỏe và Đời sống cho biết, glyceryl trinitrat là một thuốc dùng trong đau thắt ngực, thuốc có tác dụng thay đổi theo liều lượng, dạng bào chế... Có dạng chỉ dùng trong cấp nội viện (điều trị nội trú), có dạng được dùng ngoại trú mà người bệnh cần lưu ý để dùng thuốc sao cho đúng và hiệu quả.

+Tác dụng thay đổi theo liều lượng

Ở liều trung bình, sự giãn mạch xảy ra chủ yếu ở tĩnh mạch, làm giảm lượng máu về tim (giảm tiền gánh). Kết quả là giảm áp lực trong các buồng tim đồng thời còn làm giãn mạch ở các tiểu động mạch, giảm sức cản ngoại vi ở thì tâm thu, giảm tiêu thụ ôxy của cơ tim.

Do phân bố chậm, đều nên thuốc không gây hạ huyết áp động mạch, không gây nhịp tim nhanh phản xạ. Ở liều cao, thuốc gây giãn các tiểu động mạch, giảm huyết áp động mạch không nhiều song có thể gây phản xạ giao cảm làm nhịp tim nhanh.

+Tác dụng thay đổi theo dạng bào chế

- Dạng tác dụng nhanh gồm dạng tiêm, ngậm dưới lưỡi và phun mù.

Đối với dạng tiêm, thuốc chuyển hóa rất nhanh tại gan, đào thải qua thận dưới dạng chất trung gian (mono, dinitrat - glyceryl), thời gian bán hủy chỉ khoảng từ 30 - 60 giây.

Dạng ngậm dưới lưỡi có tác dụng hấp thu rất nhanh, hoàn toàn, đạt nồng độ đỉnh chỉ sau 2 phút, thấm nhanh vào cơ trơn thành mạch, phát huy tác dụng rất sớm và kéo dài tới 30 phút.

Dạng phun mù, đạt nồng độ đỉnh sau khi dùng dưới 5 phút, giảm 50% sau 3-4 phút.

Ba dạng này có tác dụng nhanh thích hợp cho điều trị cấp cứu trong cơn đau thắt ngực nghiêm trọng.

- Dạng tác dụng kéo dài bao gồm dạng viên, dạng thuốc dán (vào ngực):

Dạng viên, sau 30 phút đến 7 giờ thuốc vẫn tồn tại cả dưới dạng chưa biến đổi và dạng trung gian (mono, dinitrat của glyceryl). Dạng thuốc dán (vào ngực), giải phóng đều đặn trong 24 giờ, giảm rất nhanh sau khi ngừng dán.

Hai dạng này có tác dụng chậm hơn song đều đặn hơn, thích hợp cho dự phòng cơn đau thắt ngực.

+Thận trọng khi sử dụng

Thầy thuốc sẽ lựa chọn dạng thuốc thích hợp cho từng người bệnh. Ví dụ dự phòng cơn đau thắt ngực, dùng dạng viên có tác dụng kéo dài hay dạng ngậm dưới lưỡi. Chống đau thắt ngực thể ổn định, có thể cho dùng dạng dán hay bôi vào ngực.

Cấp cứu tại nhà có thể dùng viên đặt dưới lưỡi. Cấp cứu nội viên, dùng dạng thuốc tiêm. Với thuốc có tác dụng kéo dài, cần khởi đầu liều thấp rồi tăng dần đến liều có hiệu lực. Dùng liều cao ngay có thể bị hạ huyết áp động mạch đột ngột, nhức đầu dữ dội (ở một vài người).

Chia liều trong ngày thành 2-3 lần dùng, tùy theo sự dung nạp, hiệu quả của thuốc với người bệnh. Khi đang dùng liều cao, không ngừng thuốc đột ngột. Dùng liên tục sẽ bị nhờn thuốc. Khoảng cách giữa liều cuối ngày hôm trước và liều đầu ngày hôm sau phải chọn vào giai đoạn bệnh ổn định gọi là giai đoạn cửa sổ.

Tác dụng giãn mạch của glyceryl trinitrat là do sinh ra oxit nitrit. Oxit nitrit tạo ra methemoglobin, gây giãn mạch mạnh, hạ huyết áp. Dùng liều cao ngay từ đầu hay quá liều, dù uống hay tiêm đều rất nguy hiểm: gây nhức đầu thoáng qua, buồn nôn, bốc hỏa.

Ở một số người có thể có hạ huyết áp, nhịp tim nhanh phản xạ (đặc biệt với người già), nặng hơn nữa gây đau đầu dữ dội, chóng mặt, rối loạn thị giác, buồn nôn, nôn, đau quặn bụng, tăng áp lực nội sọ, gây methemoglobin, trụy mạch.

Thùy Linh

Nên đọc
-2 Sử dụng thuốc điều trị chứng hôi miệng
-3 Nguyên tắc chọn thuốc trị hăm cho bé
-4 Nhiễm khuẩn vì bôi thuốc trị hăm hết hạn cho trẻ
-5 Bà bầu có được uống thuốc panadol không?

Theo GDVN

Comments