Trị phong thấp từ Mộc Qua
(Giúp bạn) - Theo Đông y, mộc qua vị chua chát (sáp), tính hơi ôn. Vào các kinh: tỳ, vị, can, phế. Có công năng thư can hòa vị, khu phong trừ thấp, thư cân hoạt lạc tiêu thực chỉ thống.
Hình dáng cây
Cây sống lâu năm, cao 5-10m. Cành non hơi có lông, lá đơn hình trứng dài 5- 8mm, rộng 3-5mm, màu xanh bóng, mép lá răng cưa nhỏ đều. Hoa đơn độc mọc ở đầu cành cùng lúc lá non mới trổ (vào khoảng tháng 4-5). Quả hình trứng dài 10-15cm, thịt xốp màu vàng nâu, có mùi thơm, nhân cứng rắn.
Phân bố
Mọc ở các tỉnh Hồ Bắc, Giang Tô, Giang Tây (Trung Quốc).
Bộ phận dùng
Quả. Loại vỏ ngoài nhăn, mầu hồng tía, cứng là loại tốt. Vỏ ngoài nhăn, hơi thưa, mầu hồng nâu, xốp, là loại vừa.
Tính vị
Theo Đông y, mộc qua có vị chua chát (sáp), tính hơi ôn. Vào các kinh: tỳ, vị, can, phế. Có công năng thư can hòa vị, khu phong trừ thấp, thư cân hoạt lạc tiêu thực chỉ thống. Mộc qua được dùng cho các trường hợp phong thấp đau sưng khớp, phù chân, đau do bệnh thoái hóa cột sống thắt lưng, rối loạn tiêu hóa tiêu chảy. Liều dùng: tươi 50 – 100g, khô 6 – 20g; dưới dạng nấu sắc, ngâm ướp.
Một số cách dùng mộc qua làm thuốc trị bệnh
Trừ thấp giảm đau:
Mộc qua 63g, ngũ gia bì 63g, uy linh tiên 20g. Tất cả nghiền thành bột. Uống 12g, chiêu bằng nước và rượu thay đổi. Trị các chứng bệnh tê thấp, cước khí, bắp chân sưng phù to, nặng, tê bại, mềm nhũn, mất sức, đái ít, rêu lưỡi nhờn trắng, mạch nhu hoãn; ngoài ra còn trị thương tích do ngã, đòn đánh, đối với chân đau nhức có hiệu quả tốt.
Rượu mộc qua tang chi:
Mộc qua 30g, tang chi 50g. Nghiền vụn, ngâm trong 500ml rượu khoảng 30 ngày. Mỗi lần uống 1 chén nhỏ. Dùng cho các trường hợp đau nhức cơ khớp, đau mỏi toàn thân do các yếu tố phong hàn thấp.
Giãn gân chỉ kinh (khỏi co rút): Mộc qua 20g, ngô thù 8g, hồi hương 8g, gừng tươi 8g, tía tô 8g. Sắc uống. Trị viêm dạ dày, viêm ruột cấp tính, nôn mửa, tiêu chảy, co thắt cơ ruột gây nôn.
Mộc qua 12g, gừng tươi 9g, ý dĩ 30g. Sắc uống. Dùng cho các trường hợp nôn thổ tiêu chảy, đau bụng, rối loạn tiêu hóa.
Rượu mộc qua:
Mộc qua 120g, xuyên khung 40g, ngưu tất 40g, đương quy 40g, thiên ma 40g, ngũ gia bì 40g, hồng hoa 40g, tục đoạn 40g, bạch gia căn 40g, ngọc trúc 40g, tần giao 20g, phòng phong 20g, tang chi 16g. Các vị tán bột thô, ngâm với 15 lít rượu trắng; sau 1 tuần khuấy đảo 1 lần. Sau 1 tháng lọc và ép bã lấy rượu; cho thêm 1.300g đường phèn, khuấy cho tan. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 20 – 40g. Trừ thấp, tán hàn, đuổi phong, giảm đau. Chữa phong tê thấp, tay chân co quắp, đau nhức, mắt méo xệch. Phụ nữ có thai không được dùng.
Trị hoắc loạn chuyển gân:
Mộc qua 30g, rượu 1 lít, sắc uống. Nếu không uôngd được rượu thì sắc với nước uống. Ngoài ra nấu Mộc qua lấy nước ngâm chân (Thánh Huệ Phương).
Trị tạng Thận hư hàn, khí công lên bụng, sườn, chướng đầy, đau:
Mộc qua to 30 trái, bóc bỏ vỏ và hạt (rỗng ruột). Lấy bột Cam cúc hoa, bột Thanh diêm đều 480g. nấu chung cho nhừ thành cao. Cho vào 480g Ngải nhung, trộn thành cao, làm thành viên, to như hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 30 viên, ngày 2 lần (Thánh Tế Tổng Lục).
Trị gáy cứng, gân co rút không thể cử động được, đó là do tạng Thận và Can bị phong vậy:
Mộc qua 2 quả, khoét bỏ lõi, hột, lấy 60g Một dược, 7,5g Nhũ hương, trộn đều, cho vào trong quả Mộc qua, buộc chặt, hấp trong nồi cơm 3-4 lần, rồi nghiền nát thành cao. Mỗi lần dùng 9g, sắc với 100ml nước Sinh địa và 400ml rượu, uống nóng (Bản Sự Phương).
Trị cước khí:
Mộc qua, cắt vụn, cho vào túi, lấy chân đạp lên. Có người bị cước khí, gân co, chân sưng, nhân khi đi thuyền, lấy chân gác lên một bao tải, tự nhiên thấy nhẹ đai, đau giảm, liền hỏi lái đò trong bao tải đựng cái gì? Lái đò trả lời rằng đó là Mộc qua của vùng Tuyên châu. Khi về nhà, người này bắt chước cho Mộc qua vào bao, thay dùng liên tục thì khỏi bệnh (Danh Y Lục Phương).
Trị trĩ hoa sen:
Mộc qua tán nhuyễn, hoà với nhớt trên thân con Lươn, bôi vào, lấy giấy băng lại (Y Lâm Tập Yếu).
Trị gân chân co rút gây đau:
Mộc qua vài quả, lấy rượu và nước đều một nửa, nấu nhừ thành cao. Lúc còn âm ấm, đắp lên chỗ đau, buộc lại, khi nguội lại thay miếng khác.mỗi ngày 3-5 lần (Thực Liệu Bản Thảo).
Trị thổ tả không cầm, chân tay co rút, ngực bứt rứt khó chịu:
Mộc qua, Hồi hương, Ngô thù du, Cam thảo. Tán bột. Lấy Sinh khương, Tử tô, sắc lấy nước uống với thuốc bột (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Trị tê thấp cước khí, chân đau do chấn thương:
Mộc qua , Ngũ gia bì đều 40g, Uy linh tiên 20g, tán nhuyễn. Mỗi lần uống 10g, với rượu (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Trị viêm ruột cấp, nôn mửa, cẳng chân co giật, ngực đầy tức:
Mộc qua, Ngô thù, Hồi hương, Sinh khương, Tía tô đều 6g. Sắc uống (Mộc Qua Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị viêm gan cấp, vàng da:
Mộc qua chế thành dạng trà hãm nước sôi uống. Mỗi lần 1~2 bao, (mỗi bao có 5g thuốc sống tương đương), ngày 3 lần. Đặng Trí Mẫn trị 70 ca có kết quả tốt (Phúc Kiến Trung Y Dược 1987, 2 : 14).
Trị lỵ trực khuẩn cấp:
Mộc qua chế thành viên, mỗi lần uống 5 viên (mỗi viên 0,25g tương đương 1,13g thuốc sống, ngày 3 lần. 5~7 ngày là một liệu trình. Quách Thành Lập và cộng sự đã dùng trị 107 ca, tỉ lệ khỏi là 85,8%, tỉ lệ có kết quả 96,28% (Trung Hoa Y Học Tạp Chí 1984, 11 : 689).