Hội chứng rung lắc ở trẻ em
(Giúp bạn)Hội chứng rung lắc xảy ra thường là do rung lắc quá mạnh nhằm dỗ cho trẻ bớt khóc, thói quen đưa võng, lắc nôi ru trẻ ngủ, hoặc những động tác đơn giản khi chơi đùa với trẻ.
Vnexpress cho biết, nhiều người vì muốn ru trẻ ngủ mà cho lên võng đu đưa, thậm chí đưa võng rất mạnh vì nghĩ như thế bé mới thích. Tuy nhiên, theo bác sĩ, điều này rất nguy hiểm vì có thể khiến não trẻ bị tổn thương, thậm chí tử vong bởi Hội chứng rung lắc.
Tại Việt Nam, chưa có bất kỳ nghiên cứu và thống kê về hội chứng này. Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Nguyễn Công Nghĩa, Trưởng phòng nghiên cứu khoa học, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, tại Bệnh viện Xanh pôn trong năm nay đã có 17 trường hợp tổn thương não nghi ngờ do hội chứng rung lắc.
Nguyên nhân và triệu chứng Hội chứng rung lắc
Theo Bác sĩ Nguyễn Công Nghĩa-Thạc sĩ Sản phụ khoa, Thạc sĩ Dịch tễ học và thống kê y học, Tiến sĩ Dịch tễ học sinh sản-Đại học North Carolina – Chapel Hill – Hoa kỳ, các nguyên nhân lại rất thông thường và không bởi tai nạn. Hầu hết các trường hợp gây ra khi đứa trẻ khóc liên tục không ngừng và không dỗ được khiến cho cha mẹ hoặc người chăm sóc nỗ lực làm đứa trẻ ngừng khóc hoặc những người này trong tình trạng bực bội, mất kiên nhẫn và kiểm soát. Những nỗ lực này được thể hiện bằng cách rung lắc trẻ với cường độ cao hoặc có các hành vi mạnh hay có tính bạo lực hơn. Hiện tượng này rất phổ biến một cách không cố ý và không hề chủ tâm gây nguy hiểm cho trẻ.
Triệu chứng: Cần lưu ý rằng rất nhiều trẻ không có triệu chứng rõ rệt bên ngoài. Các dấu hiệu rõ rệt hơn bao gồm:
- Trẻ bị kích thích mạnh, thay đổi hành vi thông thường, không tiếp xúc
- Đờ đẫn, lơ mơ, hoặc ngủ mê mệt, trương lực cơ giảm (cơ nhẽo)
- Da xanh tái, nhìn thấy rõ nhất vùng trán
- Ăn, bú khó, khó nuốt hoặc nôn không có lý do rõ ràng
- Khó thở, ngừng thở hoặc co giật
- Những dấu hiệu cho thấy chấn thương cổ, sưng nề, cứng cổ, nghẹo về một bên, khó quay.
Chẩn đoán, sơ cứu và điều trị ban đầu khi trẻ bị Hội chứng rung lắc
Chẩn đoán: Thường không nhìn thấy các triệu chứng của tổn thương từ bên ngoài. Tuy nhiên bác sĩ nhãn khoa có thể phát hiện các chảy máu võng mạc mắt khi soi đáy mắt. Khi nghi ngờ, các bác sĩ nhi khoa có thể tiến hành chụp cắt lớp hoặc chụp cộng hưởng từ để tìm thương tổn.
Sơ cứu ban đầu:
- Hãy gọi cấp cứu, đừng cố vận chuyển trẻ tới bệnh viện trên các phương tiện thông thường.
- Đừng bế xốc trẻ lên hay cố gắng lắc thêm làm cho trẻ tỉnh lại
- Không cho trẻ ăn lúc này
- Nếu đứa trẻ ngừng thở trước khi có cấp cứu hỗ trợ, cần phải hô hấp nhân tạo để trợ giúp
- Nếu trẻ có nôn và không có nghi ngờ chấn thương cổ, có thể xoay đầu trẻ nhẹ nhàng về 1 phía để tránh sặc và ngừng thở. Nếu có nghi ngờ chấn thương cổ, tránh xoay trở trẻ và bảo vệ cẩn thận vùng cổ
Điều trị: Tại bệnh viện, các bác sĩ sẽ phải xem xét các thương tổn và quyết định một số điều trị như phẫu thuật cầm máu, dẫn lưu trong não thất, thuốc chống giật, v..v..
Các nguyên tắc phòng ngừa Hội chứng rung lắc ở trẻ em
- Không bao giờ lắc trẻ, kể cả khi vui đùa hay giận dữ. Khi di chuyển trẻ, hãy giữ cổ ở tư thế tương đối cố định. Không ôm giữ trẻ khi cãi cọ.
- Dân trí dẫn lời Bác sĩ Lê Thanh Hải, Phó Giám đốc BV Nhi Trung ương khuyến cáo, các bậc cha mẹ cũng không nên có những động tác làm thay đổi từ thế trẻ nhanh đột ngột như: Trẻ đang năm được bế thốc dậy, nhấc bổng trẻ lên cao, xốc nách nhấc trẻ lên cao rồi hạ xuống. Đặc biệt, khi trẻ quấy khóc hoặc làm một việc gì đó không vừa lòng, người lớn không nên tát, đánh vào đầu trẻ.
- Một đứa trẻ khóc trong 2-3 giờ vẫn có thể là bình thường. Bạn phải tìm hiểu nhiều nguyên nhân tại sao đứa trẻ khóc quá nhiều. Bạn nên có 1 danh sách các việc cần làm khi đứa trẻ khóc, ví dụ như sau: Trước hết, bạn hãy kiểm tra tã hay bỉm để bảo đảm đã được thay sạch. Bạn có thể nới rộng quần áo nếu trẻ mặc quá chật. Bạn kiểm tra xem trẻ có đói hay không và cho trẻ ăn. Kiểm tra xem trẻ có quá nóng hoặc quá lạnh. Hãy thử sử dụng đầu vú giả. Hãy ôm ấp xoa vuốt nhẹ nhàng trên mình của trẻ, tắt bớt đèn và bật nhạc nhẹ nhàng. Hãy xem các dấu hiệu bất thường khác về cách đứa trẻ thở, nhiệt độ cơ thể. Nếu không có bất kỳ điều gì đặc biệt, bạn có thể an tâm rằng đôi khi đứa trẻ khóc không có nguyên nhân, và khóc cũng không gây nguy hiểm gì cho trẻ. Khi bạn cảm thấy hết cách và rất khó chịu, hãy để đứa trẻ một mình an toàn trong cũi, giữ bình tĩnh, có thể ra ngoài một chút và quay lại kiểm tra mỗi 5-10 phút hoặc yêu cầu người khác trợ giúp.
- Giáo dục kỹ lưỡng người giúp việc hay người chăm sóc trẻ, đừng bao giờ giả định rằng họ hiểu hết và biết cách xử thế khi trẻ khóc không thể dỗ được. Hãy cho phép họ được thông báo với bạn khi trẻ khóc, cũng đừng bắt buộc họ phải luôn luôn làm mọi cách để đứa trẻ ngừng khóc. Hãy chia sẻ những điều này cả với những người khác trong gia đình hay thường xuyên chăm sóc trẻ. Những bậc ông bà của trẻ cũng không nên vì quá yêu trẻ mà rung lắc hay tạo áp lực cho cha mẹ của trẻ khi trẻ khóc nhiều.Cho đến nay, vẫn còn nhiều tranh cãi về mức độ và tư thế như thế nào là nguy hiểm cho trẻ. Trước tiên phải nói rằng những đung đưa nhẹ nhàng không gây nguy cơ này. Nhìn chung, các chuyên gia cho rằng một số động tác như tung trẻ lên không, rung trên đầu gối, đeo hoặc mang khi chạy thể dục, lắc trong võng hay đu ở mức độ thông thường không gây ra hội chứng này.
Tham khảo thuốc: Paracetamol: 80mg: Paracetamol được dùng rộng rãi trong điều trị các chứng đau và sốt từ nhẹ đến vừa. Paracetamol được dùng giảm đau tạm thời trong điều trị chứng đau nhẹ và vừa. Thuốc có hiệu quả nhất là làm giảm đau cường độ thấp có nguồn gốc không phải nội tạng.Paracetamol không có tác dụng trị thấp khớp. Paracetamol là thuốc thay thế salicylat (được ưa thích ở người bệnh chống chỉ định hoặc không dung nạp salicylat) để giảm đau nhẹ hoặc hạ sốt. |
Phùng Nguyễn
Theo GDVN