Dùng thuốc hợp lí khi bị tiêu chảy

15:24 14/04/2015

(Giúp bạn)Khi bị tiêu chảy, bù dịch là biện pháp chữa trị duy nhất cần đến. Còn một vài trường hợp tiêu chảy cấp tính, có thể cần sử dụng đến thuốc kháng sinh.

Theo Wikipedia, tiêu chảy là tình trạng đại tiện phân lỏng ba lần hoặc nhiều hơn mỗi ngày. Bệnh có hai dạng là "tiêu chảy cấp tính" và "tiêu chảy mạn tính".

Nguyên nhân phổ biến nhất là nhiễm trùng đường ruột do virus, siêu vi hoặc ký sinh trùng gây ra, một chứng bệnh được gọi là viêm dạ dày-ruột. Các trường hợp nhiễm trùng này là thường là do ăn thức ăn hoặc uống nước đã bị nhiễm khuẩn từ phân hoặc trực tiếp từ người mắc bệnh.

Một số nguyên nhân gây tiêu chảy không do nhiễm khuẩn như: tăng năng tuyến giáp, không dung nạp lactose, bệnh viêm đường ruột, một số loại thuốc, hội chứng ruột kích thích.

Dùng thuốc điều trị tiêu chảy

Sức khỏe và Đời sống cho biết, mặc dù không phải lúc nào bị bệnh tiêu chảy cũng cần dùng thuốc, nhưng việc bù nước và điện giải là biện pháp luôn cần thiết trong bất kỳ trường hợp tiêu chảy nào.

Ngoài ra, còn tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh mà có thể phải dùng đến một số loại thuốc khác kết hợp.

Dưới đây là một số loại thuốc chữa trị triệu chứng bù nước và điện giải, làm giảm sự co thắt ở ruột, sửa chữa sự rối loạn tiết dịch do đó làm giảm đau bụng và làm giảm số lần đi đại tiện.

+Dung dịch bù nước và điện giải

Dù không điều trị được nguyên nhân nhưng đây là biện pháp căn bản để chống mất nước và điện giải, từ đó tránh được các rối loạn, có thể dẫn tới shock do mất nước và điện giải gây ra.

Thường dùng nhất là dung dịch oresol (1 gói chứa 20gam glucose khan, 3,5 gam natriclorit; 2,9 gam natricitrat và 1,5 gam kaliclorit). Mỗi gói pha trong 1 lít nước sôi để nguội, có thể uống ít một nhưng liên tục trong ngày, tùy theo mức độ mất nước có thể sử dụng 2 - 3 gói trong ngày.

Có thể thay thế oresol bằng viên hydrit, mỗi 1 viên pha vào 200ml nước để uống.

Cần chú ý pha thuốc đúng tỷ lệ, nếu quá loãng sẽ không cung cấp đủ lượng chất điện giải cần thiết, nếu quá đặc sẽ dẫn đến tình trạng quá tải các chất điện giải cũng gây nguy hiểm.

+Thuốc làm giảm đau bụng

Thực chất đây là thuốc làm giảm nhu động ruột, làm giảm sự co bóp của ruột nên nước và chất điện giải di chuyển trong ruột chậm hơn, từ đó làm tăng sự hấp thu nước và điện giải trong lòng ruột vì thế làm tăng độ đặc của phân.

-1

Không dùng thuốc trong các trường hợp tiêu chảy do nhiễm khuẩn, chỉ dùng trong các trường hợp như tiêu chảy do chế độ ăn, do dị ứng...

- Loperamid:

Đây là thuốc chống tiêu chảy có gốc á phiện không tác dụng lên thần kinh trung ương ở liều điều trị. Thải trừ qua phân 90%, 10% qua nước tiểu, rất ít qua sữa mẹ. Tác dụng không mong muốn là gây táo bón, ban chẩn, nếu dùng quá liều có thể gây liệt ruột và gây ức chế hệ thần kinh trung ương.

Không dùng loại dung dịch cho trẻ dưới 2 tuổi và loại thuốc viên cho trẻ dưới 8 tuổi. Cân nhắc khi sử dụng cho người suy gan, phụ nữ có thai 3 tháng đầu.

- Diphenoxynat:

Cũng là thuốc trị tiêu chảy gốc á phiện có thêm thành phần atropine, thuốc được thải trừ qua phân. Tác dụng không mong muốn là gây khô miệng, buồn ngủ, táo bón; hiếm hơn là gây nôn mửa, nhức đầu, ngứa. Dùng quá liều có thể gây ức chế hô hấp dẫn đến hôn mê. Không dùng cho trẻ em dưới 6 tuổi, phụ nữ có thai và cho con bú, nhiễm khuẩn nặng đường tiêu hóa.

+Thuốc kháng tiết ở ruột non

Thuốc có tác dụng ức chế men encephalinase (là men phụ trách thoái hóa encephalin nội sinh ở não và ruột) làm ức chế tiết dịch ở ruột do độc tố của vi khuẩn tả hoặc do viêm mà không làm giảm dịch tiết cơ bản khác.

Thuốc hấp thu nhanh qua ống tiêu hóa, đạt đỉnh điểm sau khi uống 1 giờ, thời gian tác dụng khoảng 8 giờ. Thuốc đôi khi gây buồn ngủ, cần thận trọng khi dùng cho phụ nữ có thai và cho con bú.

+Thuốc dẫn xuất từ nấm men và vi khuẩn

Antibiophilus, byosybtin... Các nấm men không gây bệnh, đề kháng với kháng sinh, cung cấp các enzym, các acid amin và các vitamin nhóm B, nó ức chế sự phát triển của Candida albica và một số vi khuẩn khác (đặc biệt là các vi khuẩn xuất hiện khi dùng kháng sinh). Với đa số các thuốc này không nên dùng chung với các kháng sinh đường uống nhất là các kháng sinh phổ rộng.

+Các chất hấp phụ

Là những silicat thiên nhiên hoặc nhựa polyacryl thán nước, có khả năng hút nước rất nhiều làm tăng độ đặc của phân. Thuốc không được hấp thu vào máu và được đào thải theo phân mang theo các chất mà chúng đã hấp phụ, do đó không dùng chung với nhóm làm giảm nhu động ruột. Ngoài ra, cần chú ý dùng các thuốc khác cách xa thuốc này khoảng 2 tiếng.

Một số thuốc hay dùng của nhóm này như gelopectose (gồm có pectin, cellulose, silice, dextrin - maltose, natri clorit), sacolen (thành phần có lactoprotein methylelic),...

Ngoài ra, trong Đông y còn hay sử dụng thuốc berberin là alcaloit chiết xuất từ các cây vàng đắng, hoàng liên, hoàng bá, hoàng đằng. Thuốc có tác dụng diệt lỵ amíp, một số vi khuẩn gây bệnh đường ruột.

Thuốc tham khảo: Smecta

- Tiêu chảy cấp và mãn tính ở trẻ con và người lớn.
- Ðiều trị triệu chứng đau của bệnh thực quản-dạ dày-tá tràng và đại tràng.

Thùy Linh

Nên đọc
-2 Nguyên nhân trẻ bị tiêu chảy do dùng kháng sinh
-3 Xử lý đúng cách khi bé bị tiêu chảy
-4 Tiêu chảy cấp: Một số sai lầm nên tránh
-5 Trẻ bị tiêu chảy do kháng sinh: Cha mẹ nên làm gì?

Theo GDVN

Comments