Lưu ý tác dụng phụ của thuốc điều trị tăng huyết áp

15:27 14/04/2015

(Giúp bạn)Khi mắc bệnh tăng huyết áp, người bệnh cần đi khám để được bác sĩ điều trị kê đơn thuốc phù hợp vì mỗi loại thuốc lại có tác dụng phụ khác nhau.

Vì sao cần dùng thuốc để điều trị tăng huyết áp

Báo Sức khỏe và Đời sống cho biết, huyết áp cao thường gây ra các tai biến nghiêm trọng như tai biến mạch máu não, di chứng liệt nửa người, suy tim, thiếu máu cơ tim, co thắt mạch vành, suy thận, phình bóc tách động mạch chủ, hôn mê và tử vong.

Do đó, mục đích chính của điều trị tăng huyết áp là để phòng ngừa những biến chứng này. Vì vậy, phải điều trị đạt được mục tiêu (trong đó có dùng thuốc), là đưa huyết áp về dưới 130/85mmHg đối với người tuổi trung niên, riêng đối với người có bệnh đái tháo đường hay bệnh thận thì phải đưa huyết áp về dưới 130/80mmHg, hoặc ở người từ 60 tuổi trở lên thì cần đưa huyết áp về dưới 140/90mmHg (bất luận là nam hay nữ).

Có một số nhóm thuốc được sử dụng rộng rãi trong điều trị bệnh tăng huyết áp, mỗi một nhóm thuốc đều có cơ chế tác động khác nhau, tất cả đều dẫn tới hạ huyết áp. Thuốc có thể làm thay đổi sức cản ngoại vi toàn phần, thể tích tống máu, nhịp tim hoặc cung lượng tim.

Thuốc điều trị tăng huyết áp không những làm thay đổi chức năng cơ thể mà còn làm ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh, các cơ quan nội tạng, nhất là thận.

-1

Các nhóm thuốc dùng trong điều trị tăng huyết áp và tác dụng phụ

- Nhóm thuốc lợi tiểu (thiazide, hydroclorothiazid, indapamid, furosemid, sprironolacton, amilorid, triamteren). Nhóm này có thể gây hạ huyết áp thể đứng hoặc biến đổi nồng độ lipid máu gây hạ canxi, kali, magiê máu, có thể gây liệt dương (nam giới) và có thể gây tăng đường huyết (cần lưu ý, không nên dùng cho người đái tháo đường).

- Nhóm thuốc chẹn bê-ta (atenolol, propranolol, metoprolol, bisoprolol, carvedilol...) có tác dụng phụ là co thắt mạch ngoại vi, làm chậm nhịp tim, co thắt phế quản, mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ (do đó, cần lưu ý nhất đối với người hen suyễn, nhịp tim chậm không được sử dụng thuốc nhóm này).

- Nhóm ức chế men chuyển (coversyl, captopril, enalapril, imidapril, lisinopril, perindopril, ramipril...) có tác dụng phụ như suy thận, phù mạch, nhức đầu, mệt mỏi, sụt cân, choáng váng, rối loạn men gan, rối loạn vị giác, đau cơ, khớp hoặc có thể gây liệt dương (nam giới), hạ huyết áp thể đứng, buồn nôn, nhức đầu, choáng váng, phù ngoại vi, đặc biệt là ho khan dai dẳng không có thuốc nào chữa được trừ khi ngừng dùng thuốc.

- Nhóm chẹn kênh canxi (nifedipin, verapamil, diltiazem, amlodipin, felodipin, lacipin...) với tác dụng phụ có thể xảy ra nhức đầu, mệt mỏi, hồi hộp, choáng váng...

- Nhóm thuốc giãn mạch (hydralazine, monoxidil...), nếu có tác dụng phụ thì chủ yếu gây nhịp tim nhanh, đánh trống ngực, hồi hộp, đỏ bừng mặt, giữ nước, sung huyết mũi, đau ngực, tim đập nhanh, sử dụng lâu ngày có thể gây tổn hại mô liên kết gây nên bệnh lupus.

- Nhóm thuốc tác động vào hệ thần kinh trung ương (clonidine...), có thể có tác dụng phụ gây khô miệng, buồn ngủ, giữ nước, nhịp tim chậm, nhức đầu, choáng váng, buồn nôn, nôn (cần lưu ý, không dùng cho người nhịp tim chậm).

-2

Báo An ninh thủ đô dẫn tin theo FN, những người cao tuổi dùng thuốc điều trị huyết áp dễ bị các chấn thương nặng do ngã nhiều hơn so với những người không dùng thuốc.

Các nhà nghiên cứu từ trường Y Yale ở New Haven, bang Connecticut, Hoa Kỳ  đã nghiên cứu dữ liệu về gần 5.000 bệnh nhân trên 70 tuổi bị bệnh cao huyết áp phải nhập viện sau khi bị ngã.

Dựa trên liều thuốc điều trị tăng huyết áp của bệnh nhân và một số thuốc khác họ dùng trong 3 năm nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã xếp họ vào 3 nhóm theo mức độ dùng thuốc. Trong đó có 14% không dùng thuốc tăng huyết áp, 55% dùng phác đồ thuốc huyết áp vừa phải và 31% dùng phác đồ thuốc huyết áp liều cao.

Trong số những người dùng thuốc, hơn 1/3 đã uống ít nhất 3 loại thuốc huyết áp khác nhau. Trong 3 năm nghiên cứu, 446 bệnh nhân đã bị chấn thương nặng như chấn thương đầu.

So với nhóm không dùng thuốc, nhóm dùng thuốc ở mức vừa phải dễ bị chấn thương nặng do ngã hơn gấp 1,4 lần và những người dùng thuốc liều cao dễ bị chấn thương nặng hơn gấp 1,3 lần.

Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu bệnh nhân không nên ngừng sử dụng thuốc chỉ dựa trên những kết quả nghiên cứu này. Bệnh nhân và bác sĩ nên đưa ra phương pháp điều trị tùy thuộc vào từng cá nhân và cân nhắc giữa lợi và hại của việc dùng thuốc.

Thuốc tham khảo: Nifedipine 10mg Stada

Là một trong vài loại thuốc trị tăng huyết áp hàng đầu dùng cho bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao của bệnh mạch vành tiến triển kèm theo bệnh tiểu đường.

Thùy Linh

Nên đọc
-3 Những lưu ý cho người bị huyết áp thấp
-4 Người bị huyết áp thấp nên ăn gì?
-5 Mối liên hệ giữa rượu và huyết áp
-6 Lưu ý khi sử dụng thuốc nifedipin trị tăng huyết áp

Theo GDVN

Comments