Tác dụng chữa bệnh của cây ké đầu ngựa

11:29 10/03/2014

(Giúp bạn)

Ké đầu ngựa có tên khoa học là Xanthium strumarium L., Họ Cúc – Asteraceae hay cây ké đầu ngựa còn có tên khác là cây Thương nhĩ, cây Phắt ma.



Quả ké đầu ngựa tên thuốc là thương nhĩ tử. Ta dùng quả ké đầu ngựa (thương nhĩ tử) hay toàn bộ phận phơi khô. Bộ phận thường dùng là hạt. Rễ, lá có thể giã đắp lên mụn nhọt cho chóng khỏi và chữa bệnh đau răng. Nhân dân thường dùng toàn cây nấu cao để uống chữa bệnh lở loét, mụn nhọt.

 

Thông tin chung

Tên thường gọi: Ké đầu ngựa
Tên khác: thương nhĩ tử
Tên tiếng Anh: burweek
Tên latinh: Xanthium strumarium L.
Thuộc họ Cúc - Asteraceae

Mô tả

Cây thảo sống hằng năm, cao đến 1,2m. Thân có khía rãnh, có lông cứng. Lá mọc so le, có phiến đa giác, có thuỳ và răng ở mép, có lông ngắn ở hai mặt; gân gốc 3. Cụm hoa hình đầu gồm hai loại: cụm hoa đực nhỏ ở ngọn cành, to 5-6mm; cụm hoa cái cao 11mm, có móc cong, mang 2 hoa cái trong 2 ô, tròn, không có lông mào. Quả thuộc loại quả bế kép hình trứng, có vỏ (thực chất là lá bắc) rất cứng và dai, có hai ngăn, mỗi ngăn là một quả thật hình thoi dài 1,5cm.

Cây ra hoa quanh năm.

Bộ phận dùng

Quả - Fructus Xanthii, thường gọi là Thương nhĩ tử. Phần cây trên mặt đất - Herba Xanthii cũng được sử dụng. Ở Trung quốc, người ta dùng quả của loài Xanthium sibiricum Patrin. gọi là Thương nhĩ. Ở Ấn độ, người ta dùng loài Xanthium strumarium L. Tên này cũng thường được dùng để chỉ loài Ké đầu ngựa của nước ta. Chúng tôi dựa vào mô tả trong "Cây cỏ Việt Nam 1993" để giới thiệu tên trên. Loài Xanthium inaequilaterum DC., cũng gặp ở Trung quốc và có tên là Thiên cơ thương nhĩ (Thương nhĩ gốc lệch).

Nơi sống và thu hái

Loài cây của châu Mỹ được truyền vào nước ta, nay trở thành cây mọc hoang khắp Bắc Trung Nam. Người ta thu hái quả chín đem phơi hay sấy khô. Còn cây có thể thu hái quanh năm.

Thành phần hoá học

Trong quả Ké đầu ngựa có alcaloid, sesquiterpen lacton (Xanthinin, xanthumin, xanthatin), dầu béo; còn có iod với hàm lượng cao. Trong lá cũng có iod và vitamin C với hàm lượng cao. Trong cây có một hỗn hợp các alcaloid mà người ta thường coi là độc. Quả Ké đầu ngựa ở Trung quốc có xanthostrumarin, xanthanol, isoxanthanol và xanthumin.

Tính vị, tác dụng

Trừ phong, giải biểu, làm ra mồ hôi, thông khiếu, ngừng ho, bình suyễn, thẩm thấp, trị phong hàn cảm mạo, tăng huyết áp, hoàng đản, tai ù, xây xẩm, viêm mũi, bệnh lỵ, viêm ruột, viêm cổ tử cung, đau phong thấp tý, thấp chẩn, phong chẩn, kinh giản, viêm thận cấp, viêm họng, tiêu độc, bướu cổ, phát bối, mụn nhọt lở loét. Rễ trị tăng huyết áp. Sách cổ có nói: khi dùng ké thì phải kiêng thịt lợn, nếu uống ké mà dùng thịt lợn thì khắp người sẽ nổi những quầng đỏ. Liều dùng mỗi ngày 16-20g nước sắc hoặc tán bột viên uống. Trong Lĩnh nam bản thảo, Lãn Ông ghi: “Thương nhĩ tục gọi là cây ké, ngọt, ấm, hơi độc, trừ phong khí, lở da, tê thấp, quắp chân tay, sáng mắt, mát gan, bổ xương tủy”.

Quả Ké đầu ngựa (Thương nhĩ tử) có vị ngọt nhạt, hơi đắng, tính ấm, có tác dụng tiêu độc, sát trùng, tán phong, trừ thấp. Lương y Việt Cúc ghi nhận về cây Ké đầu ngựa như sau:

Thương nhĩ thảo ấm
Ggiải phong nhiệt thấp tê
Bổ não tuỷ, chữa nhức đầu viêm mũi dị ứng, bạch đới, lâm lậu
Ké đầu ngựa ngọt ôn, chữa não phong
Nhức đầu đau mắt thấp tê rần
Phong cùi lậu ké, cùng tiêu độc
Óc nhiễm hàn, mũi chảy nước trong.

Công dụng

Ké đầu ngựa được dùng chữa phong hàn đau đầu, tay chân đau co rút, phong tê thấp, đau khớp, mũi chảy nước hôi, mày đày, lở ngứa, tràng nhạc, mụn nhọt, làm ra mô hôi. Còn dùng chữa đau răng, đau họng, bướu cổ, nấm tóc, hắc lào, lỵ. Liều dùng 6-10g dạng thuốc sắc. Toàn cây được dùng chữa tử cung xuất huyết, apxe sâu, hủi và eczema. Cũng có người dùng chữa thấp khớp, bướu cổ. Liều dùng 30-60g dạng thuốc sắc.

Ở Ấn độ, người ta dùng toàn cây làm toát mồ hôi, làm dịu, làm tiết nước bọt, thường dùng trị sốt rét, Rễ đắng và bổ dùng trị bệnh tràng nhạc và ung thư. Còn quả làm mát, làm dịu kích thích, dùng trị bệnh đậu mùa.

Ở Trung quốc, quả được dùng phổ biến làm thuốc chống bướu cổ, dùng chữa viêm sưng tấy, dùng trong thuốc mỡ trị bệnh về da như eczema, ngứa, vết sâu bọ cắn và ghẻ. Cây được dùng làm thuốc ra mồ hôi, hạ nhiệt và an thần, trị thấp khớp và cảm lạnh. Rễ Ké đầu ngựa dùng trị ung thư và lao hạch; cao rễ được dùng tại chỗ trị vết loét, mụn nhọt, apxe.

Các bài thuốc sử dụng Ké đầu ngựa

Chữa phong thấp, tê thấp, tay chân co rút: Quả Ké đầu ngựa 12g giã nát sắc uống.

Chữa phong thấp đau khớp, tê dại đau buốt nửa người, hoặc chân tay lở ngứa ra mồ hôi, viêm xoang, chảy nước mũi, đau trước trán, hay đau ê ẩm trên đỉnh đầu: Ké đầu ngựa 12g, Kinh giới, Bạch chỉ mỗi vị 8g; Xuyên khung, Thiên niện kiện mỗi vị 6g sắc uống. Nước vừa đủ, sắc còn 1/3 uống ấm.

Chữa phong hủi (đại ma phong): Lá Ké đầu ngựa, lá Đắng cây, lá Thầu dầu tía, củ Khúc khắc đều 12g, lá Khổ sâm, lá Hồng hoa, lá Thanh cao, Kinh giới, Xà sàng, Bạch chỉ, đều 8g, Nam sâm 8g sắc uống. Thuốc dùng ngoài: Lá Ké đầu ngựa, Lá Cà độc dược, lá Trắc bá, lá Cau, lá Khổ sâm, lá Ngải cứu, lá Thông, lá Quýt nấu nước trước xông, sau tắm.

Hoặc: Thương truật 600g, thương nhĩ tử 120g. Tán nhỏ, trộn với nước hồ gạo hoặc nước cơm, giã nhuyễn, làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 8g với nước nguội.

Chữa chứng phong khí mẩn ngứa: Lá Ké đầu ngựa tán bột 8g, uống với rượu ngâm đậu đen. Phối hợp với thuốc dùng ngoài: Lá Ké đầu ngựa, lá Bồ hòn, lá Nghể răm, lá Thuốc bỏng, nấu nước để xông và tắm.

Chữa đau răng: Sắc nước quả Ké (liều vừa phải) ngậm 10 phút rồi nhổ ra. Ngậm nhiều lần trong ngày.

Thương nhĩ tử 100g, sắc nước đặc, ngậm 10 phút nhổ ra. Ngậm nhiều lần trong ngày.

Apxe sâu: Ké đầu ngựa 50g, Thài lài 30g giã đắp.

Apxe vú, bị thương chảy máu: Giã cây tươi đắp ngoài

Chữa các bệnh phong, dị ứng gan, mẩn ngứa, mày đay: Ké đầu ngựa 15g, Kinh giới bông 10g, Muồng trâu 15g, Cỏ Mần trầu 15g, Cam thảo đất 10g, Bạc hà 10g, Cỏ hôi 10g, Bèo tai tượng 15g, Chổi đực 10g, Nghể bà 10g. Các vị hiệp chung một thang, đổ một bát nước, sắc còn 8 phần, uống ngày 1 thang (Kinh nghiệm ở An giang)

Trị mọi phong tà đau đầu xây xẩm: Nhân hạt ké 120g, thiên ma 12g, bạch cúc hoa 12g. Nước vừa đủ sắc còn 1/3, uống nóng.

Trị phong thấp tê làm tứ chi co rút: Thương nhĩ tử 120g, giã nhỏ. Nước 1,5 lít sắc còn 0,5 lít bỏ bã uống trong ngày.

Trị phụ nữ bị phong nổi mẩn đỏ dưới da ngứa, gãi: Hoa ké và quả ké, lượng bằng nhau, tán nhỏ. Mỗi lần uống 8g với nước đậu (đậu xanh hoặc đậu đen).

Trị mũi chảy nước không ngừng: Tân di 20g, thương nhĩ tử 10g, bạch chỉ 40g, bạc hà điệp 2g. Tất cả phơi khô, tán nhỏ. Mỗi lần uống 8g với nước chín sau mỗi bữa ăn.

Trị mắt tối, tai ù: Thương nhĩ tử 1g, tán bột uống với nước chín.

Trị đinh sang độc: Thương nhĩ tử 20g, sao qua, nghiền nhỏ, uống ngày 3 lần với nước có ít rượu trắng. Đồng thời dùng lòng trắng trứng gà đồ, phết chỗ đau. Có ngòi đinh thì nhổ đi.

Trị sốt rét lâu không khỏi: Thương nhĩ tử 150g phơi khô nghiền nhỏ, hòa rượu, viên bằng hạt ngô, mỗi lần uống 30 viên với nước ấm.

Hoặc ké đầu ngựa tươi 120g, rửa sạch giã nhừ, thêm nước vừa đủ, sắc 15 phút bỏ bã, rồi đánh vào nước thuốc 2-3 quả trứng gà, nấu chín. Trước khi lên cơn sốt rét uống thuốc trên. Chưa khỏi thì làm lại uống tiếp.

Trị thủy thũng, bụng to, tiểu tiện không lợi: Thương nhĩ tử và đình lịch, lượng bằng nhau, tán nhỏ, mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần với nước chín.

Trị viêm mũi: Quả ké đầu ngựa 150g, sấy khô nghiền bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần 4g, uống liền 2 tuần. Chưa khỏi, nghỉ 3-5 ngày lại uống tiếp đợt hai.

Trị viêm mũi mạn tính: Ké đầu ngựa 30-40 quả, lấy hạt cho vào xoong nhôm, đổ dầu vừng lượng vừa đủ, đun vừa phải rồi bỏ ké, đợi dầu nguội cho vào lọ để dành, dùng dần. Lúc dùng, lấy bông thấm dầu thuốc đổ vào xoang mũi, ngày 2-3 lần, liền 2 tuần là một liệu trình điều trị.

Trị nghiện rượu khó cai được: Thương nhĩ tử 7 quả, sao cháy, cho vào trong rượu uống thì không nghiện nữa.

Chữa 2 chân bị lở loét: Thương nhĩ tử sao vàng, nghiền nhỏ từ 70-80g, mỡ lợn sống từ 150-250g. Dùng nước sát trùng rửa vết loét. Giã nhuyễn mỡ lợn với bột thương nhĩ tử thành cao dẻo, bôi lên vết lở loét.

Chữa viêm tuyến tai: Ké đầu ngựa 12-16 sắc nước uống ngày 4 lần. Uống liền 3 ngày. Chứng nặng thì dùng lá thân cây ké đầu ngựa giã đắp bên ngoài.

Trị hầu họng tê đau do phong tà độc thấm nhiễm: Rễ ké, củ gừng già lượng bằng nhau, giã nhỏ, sắc nước, cho thêm tí rượu uống ấm, uống chậm để thấm nơi hầu họng đau.

Trị đơn độc, hỏa chạy khắp người: Rễ và lá ké sắc nước xông rửa chỗ sưng, đỏ.

Chữa tăng huyết áp: Rễ ké 20-40g sắc nước uống.

Trị viêm thận, phù thũng: Rễ thương nhĩ 40g sắc uống.

Trị các loại nhọt sưng đau: Rễ ké 60g, ô mai 5 quả, hành cả rễ 3 củ. Rượu 1-1,5 bát (200-300ml). Sắc còn 1/3 uống nóng cho ra mồ hôi.


Đặc điểm thực vật, phân bố của Ké đầu ngựa: Cây Ké đầu ngựa nhỏ, cao độ 2m, thân có khía rãnh. Lá mọc so le, có lông ngắn, cứng, mép răng cưa. Cụm hoa hình đầu, quả giả hình thoi, có móc. Cây mọc hoang khắp nơi trong cả nước.

Cách trồng Ké đầu ngựa: Trồng Ké đầu ngựa bằng hạt vào mùa xuân, cây mọc cao 6 -7m đánh trồng chỗ khác.

Bộ phận dùng, chế biến của Ké đầu ngựa: Quả Ké sao vàng. Dùng toàn bộ phần trên mặt đất của cây phơi hay sấy khô.

Công dụng, chủ trị Ké đầu ngựa: Ké có vị ngọt, tính ôn, làm ra mồ hôi, tán phong, chữa đau nhức tê dại, mờ mắt, viêm mũi, chân tay co rút. Tiêu độc, mụn nhọt, lở loét và chữa bướu cổ.

Liều dùng Ké đầu ngựa: Quả Ké sao vàng 4 – 8g, dưới dạng thuốc sắc.

Chú ý: Uống nước sắc quả Ké phải kiêng thịt lợn vì gây dị ứng nổi quầng đỏ (chưa rõ nguyên nhân).

Đơn thuốc có Ké đầu ngựa:

Chữa mũi chảy nước trong: Quả Ké sao vàng, tán bột, uống 4 – 8g/ngày.

Chữa thủy thũng, bí tiểu tiện: Quả Ké (đốt tồn tính); Đình lịch tử. Hai vị bằng nhau, tán bột. Uống với nước, ngày 2 lần, mỗi lần 8g.

Chữa phong thấp mẩn ngứa: Lá Ké tán bột 8g, uống với rượu ngâm Đậu đen.

Chữa các chứng phong ngứa dị ứng: Ké đầu ngựa 15g, hoa Kinh giới 10g, Muồng trâu 10g, cỏ Mần trầu 15g, Cam thảo đất 10g, Bạc hà 10g, Bèo cái 15g, lá Nghể 10g, sắc với 3 bát nước, lấy 1 bát, uống 1 thang/ ngày.

Chữa tổ đỉa: Quả ké 50g, thổ phục linh 50g, hạ khô thảo 50g, vỏ núc nác 30g, sinh địa 20g, hạt dành dành 15g. Tán bột làm viên. Ngày uống 20-25g.

Chữa nổi mày đay: Loại mày đay từng đám lặn chỗ này, mọc chỗ khác. Thương nhĩ tử 10g, kinh giới 15g, bạc hà 15g. Tất cả rửa sạch nấu lấy nước (bỏ bã) nấu cháo. Loại mày đay đỏ, nóng, ngứa nhiều. Hạt thương nhĩ tử 15g, sinh địa 30g, bạc hà 12g. Nấu lấy nước uống.


 

Theo Đông y, quả ké có tính ôn, vị ngọt, vào kinh phế, có độc. Tính năng khu phong, trừ thấp, lợi tiểu, tiêu viêm, giảm đau, chủ trị có thể xếp vào 3 nhóm chính: các bệnh ngoài da, bệnh mũi xoang, bệnh xương khớp.

 

 

Cây ké đầu ngựa mọc hoang ở nhiều nơi, tên Hán là Thương nhĩ tử, tên khoa học loài có ở Việt Nam duy nhất là Xanthium strumarium. Loại cho quả to bằng ngón chân cái gọi ké ông mới là thật tốt.

 

 

 

Theo Tây y, thành phần hóa học của loại quả này có nhiều iod và vitamin C (đặc biệt trong lá 47mg/100g lá). Quả non có nhiều vitamin C và các glucoza, B sintosterol và B DglucoziDl có tác dụng chống viêm.

Hạt ké có tỷ lệ dầu béo cao hơn 30-35%. Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy gây giảm đường huyết của chuột bình thường, ức chế thần kinh trung ương, kháng khuẩn gam âm, kháng nấm. Cồn rễ giảm trọng lượng khối u và tăng thời gian sống. Trong lâm sàng ứng dụng thành phần iod để chữa các bệnh thiếu iod như bướu cổ đơn thuần.

Độc tính của ké đầu ngựa được đề cập đến trong cả Đông và Tây y. Trong các phần trên mặt đất của cây ké chứa hỗn hợp alcaloid được coi là độc tố. Hạt có một chất gây độc cho gia súc, trong đó có hydroquinon, cholin và một chất thứ ba độc hơn chưa xác định được. Búp non cây ké có sách viết là rất độc. Phấn hoa ké đầu ngựa gây dị ứng viêm mũi, viêm da co thắt phế quản, hen. Cây chỉ gây dị ứng trước khi ra quả. Do có iod nên sẽ giảm tiết sữa của bà mẹ nuôi con.

Trong Đông y dùng cao ké đầu ngựa, không được ăn thịt lợn, thịt ngựa vì với người mẫn cảm có thể bị nổi quầng trên da. Nhưng bệnh viện Giang Tây, Trung Quốc chưa nhất trí vì bệnh nhân không kiêng vẫn thấy bình thường.

* Một số bài thuốc từ cây ké đầu ngựa:

Bệnh ngoài da:

 

 

 

1. Mụn nhọt

Cao thương nhĩ (Vạn ứng cao): Toàn cây khô nấu cao mềm, hóa nước uống ngày 6-8g. Uống liên tục 1 tháng.

Hoàn thương nhĩ: Lấy toàn cây trừ rễ. Nấu cao đặc, tán bột, vo viên. Ngày uống 3 lần. Mỗi lần 15-20g.

 

 

 

2. Chốc lở ở trẻ nhỏ

Ké đầu ngựa 10g, kim ngân hoa 20g, chế thành trà thuốc đóng gói 30g. Ngày uống 1 gói, hãm với nước sôi 500ml. Uống nhiều lần, trẻ dưới 1 tuổi uống nửa gói.

Ké đầu ngựa 10g, bồ công anh 15g, sài đất 10g, kim ngân hoa 5g, cam thảo đất 2g. Chế thành trà thuốc đóng gói 40g. Ngày uống 1 gói hãm nước sôi, uống dần. Trẻ dưới 18 tháng ngày uống nửa gói.

 

 

 

3. Tổ đỉa

Quả ké 50g, thổ phục linh 50g, hạ khô thảo 50g, vỏ núc nác 30g, sinh địa 20g, hạt dành dành 15g. Tán bột làm viên. Ngày uống 20-25g.

 

 

 

4. Nổi mày đay

Loại mày đay từng đám lặn chỗ này, mọc chỗ khác: Thương nhĩ tử 10g, kinh giới 15g, bạc hà 15g. Tất cả rửa sạch nấu lấy nước (bỏ bã) nấu cháo.

Loại mày đay đỏ, nóng, ngứa nhiều: Hạt thương nhĩ tử 15g, sinh địa 30g, bạc hà 12g. Nấu lấy nước uống.

5. Các bệnh ngoài da do dị ứng, chàm (của BS. Nguyễn Xuân Sơn, khoa Da liễu Bệnh viện Việt - Tiệp): ké đầu ngựa 9kg, thổ phục linh 9kg, đường kính 19kg, cồn benzoic 10% 300ml. Nước vừa đủ 23 lít. Nếu không dùng đường thì nấu nước, cô cao, tán bột, làm viên. Đã điều trị 124 trường hợp kết quả khỏi đỡ nhiều đạt 92%.

6. Viêm da mủ và nhiễm trùng thứ phát (chốc, nhọt, loét sâu quảng, bối thư, do liên cầu tụ cầu). Dùng ké đầu ngựa, kim ngân hoa, bồ công anh, thổ phục linh, sài đất mỗi vị 30g (công thức điều trị của bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng-Khoa truyền nhiễm). Kết quả khỏi 73,8%, đỡ 18,8%. Không khỏi 7,4%.

 

 

 

7. Bệnh phong (cùi, hủi)

Ké đầu ngựa giã vắt lấy nước cốt cô thành cao, làm thỏi 300g, lấy 1 con cá quả đen, mổ bụng, để ruột không bỏ, cho vào một thỏi ké. Nấu chín với rượu để ăn. Ăn 3-5 con. Kiêng muối 100 ngày.

Các loại ké đắng, cay, thầu dầu tía, củ khúc khắc mỗi thứ 12g, lá khổ sâm, lá hồng hoa, lá thanh cao, lá kinh giới, sà sàng, bạch chỉ mỗi vị 8g, nam sâm 4g. Sắc uống.

Bệnh xoang mũi

1. Viêm mũi xoang dị ứng: Ngạt mũi, chảy nước mũi, hắt hơi.

Thương nhĩ tử nấu lấy nước uống hoặc nấu cháo.

Mũi chảy nước trong đặc: Quả ké vàng tán bột. Ngày uống 4-8g.

 

 

 

2. Viêm xoang do đởm nhiệt

Triệu chứng: Chảy nước mũi đặc như mủ, mùi tanh, mất khả năng ngửi, sốt, đau đầu, đắng miệng, hoa mắt, khô họng, ít ngủ, buồn phiền, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch huyền). Dùng thương nhĩ đủ lượng vừa phải. Mật lợn vừa đủ, hoắc hương cả cành lá 240g, tán bột mịn trộn với mật lợn làm hoàn. Ngày uống 15g, lấy nước sắc thương nhĩ tử làm thang (bài của Ngô Khiêm đời Thanh trong Y tông kim giám).

Viêm xoang mũi: Dùng bài thương nhĩ tử tán của Nghiêm Dung Hòa đời Tống trong Tê sinh phương: Thương nhĩ tử 8g, tân di hoa 15g, bạc hà 3g, bạch chỉ 30g. Trà lượng vừa đủ, hành lượng vừa đủ. Tán bột mịn 4 vị trên, uống sau bữa cơm mỗi lần 6g với nước trà và hành nấu chung. Nếu viêm xoang thời kỳ đầu thuộc biểu chứng thì tăng lượng bạc hà. Có thể thêm cúc hoa, liên kiều, cát căn, kim ngân hoa…

Bệnh ung thư

1. Ung thư mũi: Dùng bài sau có thành phần giống bài thương nhĩ tử tán trên nhưng khác liều lượng: Thương nhĩ tử 10g, tân di 15g, ngày 8-12g, chia 2-3 lần.

2. Ung thư não: Thương nhĩ tử 15g, thất diệp nhất chi hoa (cây 7 lá 1 hoa) 16g, viễn chi 10g, xương bồ 6g, sắc uống ngày một thang.

Các loại ung thư dùng chung bài quả hoặc lá thân thương nhĩ 20g sắc uống ngày 1 thang.

Thấp khớp

1. Rượu thương nhĩ (phổ tế phương): thương nhĩ tử 30g, phòng phong 30g, ngưu bàng tử (sao) 30g, đại sinh địa 30g, độc hoạt 30g, ý dĩ nhân 20g, nhân sâm 15g, nhục quế 12g. Tất cả giã nát cho vào túi vải ngâm vào rượu 2 lít, buộc kín miệng bình. Sau 1 tuần uống được, mỗi lần 1 ly. Ngày uống 2-3 lần.

2. Phong thấp chân tay co rút: Lấy thương nhĩ tử nấu nước uống. Lá đâm nhỏ dầm rượu đắp ngoài.

Các bệnh khác

1. Bướu cổ đơn thuần (do thiếu iod): quả ké hoặc lá sắc nước uống hoặc hãm nước sôi như trà để uống.

2. Đau răng: Sắc quả ké lấy nước ngậm súc miệng.

3. Cai thuốc lá, chữa béo phì: Ăn cháo hoặc nước trà thương nhĩ tử.

4. Côn trùng, loài độc cắn: (rắn, rết, chó…): một nắm lá non đâm nhỏ vắt lấy nước thêm ít rượu để uống bã đắp vết thương.

5. Sốt rét cơn: Dùng cao ké, viên ké đầu ngựa


 

 

Ké đầu ngựa - Xanthium inaequilaterum DC., thuộc họ Cúc - Asteraceae.

 

 

 

 

 

Mô tả: Cây thảo sống hằng năm, cao đến 1,2m. Thân có khía rãnh, có lông cứng. Lá mọc so le, có phiến đa giác, có thuỳ và răng ở mép, có lông ngắn ở hai mặt; gân gốc 3. Cụm hoa hình đầu gồm hai loại: cụm hoa đực nhỏ ở ngọn cành, to 5-6mm; cụm hoa cái cao 11mm, có móc cong, mang 2 hoa cái trong 2 ô, tròn, không có lông mào. Quả thuộc loại quả bế kép hình trứng, có vỏ (thực chất là lá bắc) rất cứng và dai, có hai ngăn, mỗi ngăn là một quả thật hình thoi dài 1,5cm.

 

 

 

 

 

Cây ra hoa quanh năm.

 

 

 

 

 

Bộ phận dùng: Quả - Fructus Xanthii, thường gọi là Thương nhĩ tử. Phần cây trên mặt đất - Herba Xanthii cũng được sử dụng. Ở Trung quốc, người ta dùng quả của loài Xanthium sibiricum Patrin. gọi là Thương nhĩ. Ở Ấn độ, người ta dùng loài Xanthium strumarium L. Tên này cũng thường được dùng để chỉ loài Ké đầu ngựa của nước ta. Chúng tôi dựa vào mô tả trong "Cây cỏ Việt Nam 1993" để giới thiệu tên trên. Loài Xanthium inaequilaterum DC., cũng gặp ở Trung quốc và có tên là Thiên cơ thương nhĩ (Thương nhĩ gốc lệch).

 

 

 

 

 

Nơi sống và thu hái: Loài cây của châu Mỹ được truyền vào nước ta, nay trở thành cây mọc hoang khắp Bắc Trung Nam. Người ta thu hái quả chín đem phơi hay sấy khô. Còn cây có thể thu hái quanh năm.

 

 

 

 

 

Thành phần hoá học: Trong quả Ké đầu ngựa có alcaloid, sesquiterpen lacton (Xanthinin, xanthumin, xanthatin), dầu béo; còn có iod với hàm lượng cao. Trong lá cũng có iod và vitamin C với hàm lượng cao. Trong cây có một hỗn hợp các alcaloid mà người ta thường coi là độc. Quả Ké đầu ngựa ở Trung quốc có xanthostrumarin, xanthanol, isoxanthanol và xanthumin.

 

 

 

 

 

Tính vị, tác dụng: Quả Ké đầu ngựa (Thương nhĩ tử) có vị ngọt nhạt, hơi đắng, tính ấm, có tác dụng tiêu độc, sát trùng, tán phong, trừ thấp. Lương y Việt Cúc ghi nhận về cây Ké đầu ngựa như sau: Thương nhĩ thảo ấm, giải phong nhiệt thấp tê, bổ não tuỷ, chữa nhức đầu viêm mũi dị ứng, bạch đới, lâm lậu

 

 

 

 

 

Ké đầu ngựa ngọt ôn, chữa não phong,

 

 

 

 

 

Nhức đầu đau mắt thấp tê rần,

 

 

 

 

 

Phong cùi lậu ké, cùng tiêu độc,

 

 

 

 

 

Óc nhiễm hàn, mũi chảy nước trong.

 

 

 

 

 

Công dụng: Ké đầu ngựa được dùng chữa phong hàn đau đầu, tay chân đau co rút, phong tê thấp, đau khớp, mũi chảy nước hôi, mày đày, lở ngứa, tràng nhạc, mụn nhọt, làm ra mô hôi. Còn dùng chữa đau răng, đau họng, bướu cổ, nấm tóc, hắc lào, lỵ. Liều dùng 6-10g dạng thuốc sắc. Toàn cây được dùng chữa tử cung xuất huyết, apxe sâu, hủi và eczema. Cũng có người dùng chữa thấp khớp, bướu cổ. Liều dùng 30-60g dạng thuốc sắc.

 

 

 

 

 

Ở Ấn độ, người ta dùng toàn cây làm toát mồ hôi, làm dịu, làm tiết nước bọt, thường dùng trị sốt rét, Rễ đắng và bổ dùng trị bệnh tràng nhạc và ung thư. Còn quả làm mát, làm dịu kích thích, dùng trị bệnh đậu mùa.

 

 

 

 

 

Ở Trung quốc, quả được dùng phổ biến làm thuốc chống bướu cổ, dùng chữa viêm sưng tấy, dùng trong thuốc mỡ trị bệnh về da như eczema, ngứa, vết sâu bọ cắn và ghẻ. Cây được dùng làm thuốc ra mồ hôi, hạ nhiệt và an thần, trị thấp khớp và cảm lạnh. Rễ Ké đầu ngựa dùng trị ung thư và lao hạch; cao rễ được dùng tại chỗ trị vết loét, mụn nhọt, apxe.

 

 

 

 

 

Đơn thuốc:

 

 

 

 

 

1. Chữa phong thấp, tê thấp, tay chân co rút: Quả Ké đầu ngựa 12g giã nát sắc uống.

 

 

 

 

 

2. Chữa phong thấp đau khớp, tê dại đau buốt nửa người, hoặc chân tay lở ngứa ra mồ hôi, viêm xoang, chảy nước mũi, đau trước trán, hay đau ê ẩm trên đỉnh đầu: Ké đầu ngựa 12g, Kinh giới, Bạch chỉ mỗi vị 8g; Xuyên khung, Thiên niện kiện mỗi vị 6g sắc uống.

 
Từ khóa bài viết: Tác dụng chữa bệnh của cây ké đầu ngựa,

Comments