Độc đáo lễ cưới của người Khmer Nam Bộ
(Giúp bạn)Bản sắc văn hóa Việt vốn thống nhất trong đa dạng với những sắc thái văn hóa các vùng miền. Là một trong 54 dân tộc anh em trên dải đất Việt Nam tươi đẹp, từ lâu người Khmer đã sáng tạo lên một bản sắc văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng. Một trong những phong tục, đó là lễ cưới (Pi-pea,)
- 1
Lễ Sđây Đol Đâng (Lễ nói)
Theo quan niệm của ngươi Khmer thì lễ cưới phải được tổ chức vào những tháng đủ (30 ngày) thì mới được may mắn và hạnh phúc. Lễ cưới của đôi trẻ người Khmer thường được chọn theo dương lịch và diễn ra với ba nghi lễ: Lễ Sđây Đol Đâng (Lễ nói), Lễ Lơng ma ha (Lễ hỏi), Lễ Pithi A-pe-pì-pe (Lễ cưới).
Lễ Sđây Đol Đâng (Lễ nói) là lễ đầu tiên trong hệ thống các nghi lễ cưới của người Khmer. Trong lễ này, đàng trai chọn Nék Chău Ma Ha (người làm mai) đi cùng đến nhà gái làm lễ nói. Lễ vật gồm: Bánh, trái cây, trầu cau …, mỗi thứ đều là số chẵn. Bà mối trong lễ Sđây Đol Đâng phải là người có uy tín, ăn nói hoạt bát, hiểu biết nhiều. Đây là người đã lập gia đình, vợ chồng sống hạnh phúc, đầm ấm, cháu con đầy đủ. Bà mối đến nhà gái dạm hỏi và tìm hiểu ngày tháng năm sinh của cô gái.
Lễ vật cưới: Bánh, trái cây, trầu cau …, mỗi thứ đều là số chẵn
- 2
lễ Lơng ma ha (Lễ hỏi)
Hai nhà thông báo cho thân nhân và lối xóm biết hai đàng đã chính thức là xui gia. Lễ vật nhà trai đem sang nhà gái gồm: 4 nải chuối, 4 chai rượu, 4 gói trà, 4 gói trầu, 2 đùi heo, 2 con gà, 2 con vịt và một số tiền. Trong lễ này, ngày tháng tổ chức đám cưới cũng được hai họ thống nhất. Thông thường, để làm tốt công việc này bà mối phải đến nhà gái 3 lần. Có những gia đình nhà gái yêu cầu sau khi bà mối đến thì phải có 3 ông mối đến nói chuyện với cha cô gái. Sau khi định rõ ngày lành tháng tốt, ông – bà mối cùng đàng trai đem lễ vật đến cúng tổ tiên nhà gái.
Sau khi định rõ ngày lành tháng tốt, ông – bà mối cùng đàng trai đem lễ vật đến cúng tổ tiên nhà gái. Lễ vật đặt trên các đĩa bạc hoặc trong các thạp gỗ sơn son thếp vàng. Vị a-cha đọc kinh cầu nguyện cho đôi trai gái thành vợ thành chồng cũng như đọc kinh phù hộ cho họ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Rồi sau đó chọn người ăn nói vui vẻ đến dự lễ ăn hỏi hầu mang đến niềm vui cho hai họ, nhất là cho cô dâu chú rể. Sau lễ hỏi, chú rể tương lai được phép đến nhà cô dâu để hầu hạ cha mẹ vợ sắp cưới của mình.
Nhà gái ra nhận lễ
- 3
Lễ Pithi A – pe –pì – pe (lễ cưới)
Lễ quan trọng nhất trong hệ thống lễ cưới của người Khmer là lễ Pithi A – pe –pì – pe (lễ cưới). Lễ này được diễn ra tại nhà gái, dưới sự điều khiển của Acha Pô Lia (thầy cúng). Những nghi lễ chính: tiễn đưa chàng rể về nhà gái; dâng cơm cho sư; cắt tóc; lạy ông bà; rắc bông cau; nhập phòng, nghi lễ được thực hiện theo các điệu nhạc múa cổ truyền.
Lễ cưới thường được tổ chức trong 3 ngày khá phức tạp và tốn kém. Trước ngày cưới, nhà trai dựng cạnh nhà cô dâu một dãy nhà tạm bằng tre lá. Nhà có ba gian: một gian làm bếp, một gian để đãi tiệc và một gian để các chùm hoa cau. Ngày thứ nhất là ngày làm bánh (thường phải có bánh tét, bánh ít và đặc biệt không thể thiếu bánh gừng (Num kha-nhây) và bày tiệc.
Ngày thứ hai chú rể và nhiều người khác đến ngồi trong gian nhà đặt hoa cau. Buổi trưa là lễ cắt tóc. Trong lễ có một ca sĩ vừa hát vừa múa theo điệu nhạc, đi vòng quanh cô dâu chú rể, thỉnh thoảng giơ kéo cắt một vài sợi tóc của hai người. Tục này nhằm cắt bỏ những điều xấu khỏi cuộc đời của đôi trai gái. Buổi chiều, cha mẹ cô dâu buộc chỉ vào cổ tay cô dâu chú rể, rồi buộc cả cho người thân và bạn bè. Lễ buộc chỉ xong, mọi người cùng nhau vui vẻ dự tiệc.
Đôi trẻ làm lễ cúng tổ tiên
Sang ngày thứ ba, cô dâu mặc quần áo theo truyền thống, váy bằng lụa, thắt lưng bằng bạc hoặc mạ vàng, khăn quàng thêu kim tuyến quấn lấy thân và vắt sang vai trái. Chú rể có thể mặc quần tây áo sơ-mi. Cô dâu chú rể lạy trước bàn đặt hoa cau rồi ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu bông. Vị a-cha thắp nhang đèn, đọc kinh và lời khấn bằng tiếng Pa-li cầu xin ơn trên ban phước lành cho đôi tân hôn. Sau đó, ông cầm thanh gươm đi với những người mang hoa cau làm lễ Mặt trời. Chú rể cầm quạt che mặt bước lên nhà trong lúc ba tiếng cồng được đánh ngân vang. Em trai hoặc em gái của cô dâu đón chú rể, gởi chăn mền và đưa cho chú rể một miếng trầu. Sau đó chú rể lì xì cho cậu em trai hoặc em gái cô dâu một số tiền nhỏ.
Sợi chỉ hồng cột tây đôi trẻ như lời chúc phúcKhi vào nhà, chú rể ngồi xuống chiếu, mặt quay về hướng Đông. Trước mặt chú rể đã bày sẵn 3 dĩa hoa cau, xung quanh là các mâm bánh tét, bánh ít, bánh gừng một cái đầu heo luộc và một con gà luộc. Sau khi chú rể kính cẩn lạy mọi người trán chạm xuống chiếu, vị a-cha trao cho chú chùm hoa cau thứ nhất dành tặng cha vợ, chùm thứ hai cho mẹ vợ và chùm thứ ba cho em vợ để tỏ lòng biết ơn những người đã có công nuôi dưỡng, chăm sóc giúp đỡ vợ mình trong thời gian qua.
Lễ xong, mọi người chúc mừng đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc, đàn hát ca múa vui vẻ. Sau đó mới thắp đèn cầy xung quanh cô dâu chú rể. Đèn cầy được chẻ làm hai nhánh, người này cầm xong trao cho người bên trái mình. Cứ thế cho đến khi đủ 19 vòng thì tắt đèn cầy. Vị a-cha lấy hoa cau ném cho mọi người xung quanh. Và mọi người cùng ném hoa cau vào nhau để chúc mừng hạnh phúc.
Đến chiều tối, theo tiếng cồng, chú rể bám vào chiếc khăn của cô dâu (tôn xa-bay), cả hai bước vào phòng. Hai vợ chồng ngồi đối mặt nhau mà cô dâu có hai phụ dâu ngồi hai bên. Chú rể múc một muỗng cơm đút cho cô dâu. Cô dâu đáp lễ. Cũng làm ba lần như thế là tục ăn chuối. Sau đó, một người phụ dâu dùng tay cụng đầu cô dâu vào đầu chú rể, và dặn dò những điều cần thiết theo phong tục tập quán cổ truyền.
Đó là quy trình nghi lễ trong đám cưới cổ truyền của người Khmer. Tuy nhiên, hiên nay lễ cưới của người Khmer đã đơn giản hóa đi nhiều, thậm chí có gia đình còn pha thêm một ít nghi lễ cưới xin của người Hoa và người Việt vào, ở thành thị đã được đơn giản hơn và chỉ tập trung trong chỉ một ngày. Tuy nhiên lễ cưới hỏi của người Khmer Nam bộ ở nông thôn vẫn còn được lưu giữ nghiêm ngặt theo luật tục cổ truyền.