Phong tục hôn nhân của dân tộc Kháng
(Giúp bạn)Các nghi thức hôn nhân ở dân tộc Kháng chịu ảnh hưởng cơ bản từ phong tục cưới hỏi của dân tộc Thái, trong đó có một nghi lễ đặc biệt giống với tập quán của dân tộc Thái đó là nghi lễ đi ở rể.
- 1
Mùa cưới
Mùa cưới của dân tộc Kháng thường diễn ra từ tháng 10 năm trước đến tháng 2 âm lịch năm sau. Theo quan niệm của đồng bào thì đây là thời gian thuận lợi: thu hoạch mùa xong xuôi, no đủ, công việc nông nhàn.
Dân tộc Kháng có phong tục tìm người mai mối cho đôi trẻ. Người được chọn làm mối có thể là nam hoặc nữ, phải là người có gia đình hòa thuận, hạnh phúc, đông con, vợ chồng biết làm ăn vì theo quan niệm của họ người làm mối sẽ mang lại may mắn, cuộc sống đầy đủ, đông con nhiều cháu cho cặp vợ chồng tương lai
- 2
Dạm ngõ
Khi đôi trai gái đã ưng ý nhau thì bố mẹ bên nhà trai sẽ tìm một người mối, đại diện cho nhà trai mang lễ vật sang nhà gái dạm ngõ. Lễ vật dạm ngõ thường rất đơn giản chỉ cần một con gà và một chai rượu. Sau buổi gặp mặt đầu tiên nếu nhà gái nhận lễ và mời nhà trai ở lại ăn cơm hoặc nhà gái nhận lời thì tức là việc hôn nhân của đôi trai gái sẽ được tiến hành.
- 3
Lễ hỏi
nhà trai chọn ngày lành tháng tốt mang một ít lễ vật gồm: lợn, gà, rượu, gạo đến nhà gái để đặt vấn đề chính thức về cuộc hôn nhân cho đôi trẻ. Trong lễ này, nhà gái mời họ hàng thân thích đến dự để bàn bạc thống nhất với đại diện nhà trai về lễ vật thách cưới mà nhà trai phải nộp cho nhà gái theo phong tục dân tộc Kháng. Đặc biệt, trong ngày lễ ăn hỏi nhà trai phải chuẩn đồ sính lễ cho cô dâu - tuỳ theo kinh tế của từng gia đình nhưng thông thường gồm 1bộ váy áo, 1 đôi tóc giả, 1đôi hoa tai, 1 trâm cài tóc và nếu giàu có thêm 1 đôi vòng tay bạc. Các thứ này là của lấy lòng tin con dâu. Nếu sau này 2 vợ chồng cãi nhau muốn bỏ nhau cô dâu phải trả lại những vật này cho bố mẹ chồng.
- 4
Lễ cưới
(đây là lễ cưới ban đầu hay còn gọi là lễ búi tóc cho cô dâu - tẳng soi đe quân măn): Từ lễ ăn hỏi đến lễ cưới thời gian thường từ vài ba tháng, hoặc một năm, tuỳ thuộc vào sự bàn bạc thống nhất giữa nhà trai với nhà gái hoặc tuỳ hoàn cảnh mỗi gia đình. Sau khi chọn được thời gian thích hợp, nhà trai chủ động bàn bạc với nhà gái để chuẩn bị cho lễ cưới.
Tại lễ cưới này cô dâu sẽ làm luôn lễ búi tóc ngược. Chọn được ngày lành, tháng tốt nhà trai mang đủ lễ vật như đã thoả thuận với nhà gái để làm lễ cưới. Trong lễ cưới, người đại diện cho nhà trai nói lời cảm ơn nhà gái đã có công sinh thành, nuôi dưỡng cô dâu. Khi đến nhà gái, chú rể phải có lễ trình tổ tiên, cũng như cô dâu phải lạy trước bàn thờ ma của gia đình và quỳ xuống để bà mối hoặc một người phụ nữ lớn tuổi có uy tín làm lễ búi tóc cho cô dâu. Sau đó cô dâu được đưa về nhà trai để ra mắt bố mẹ và họ hàng nhà chồng rồi mới quay về nhà mẹ đẻ để chú rể ở rể.
- 5
Lễ về nhà chồng
Hay còn được coi như lễ cưới lần 2 của đôi vợ chồng sau thời gian ở rể một vài năm. Đây là một nghi lễ đánh dấu mốc cô dâu chính thức về cư trú bên nhà chồng và chú rể kết thúc hạn ở rể. Nghi lễ này diễn ra gọn nhẹ hơn lễ cưới, lễ vật gồm có thịt, rượu, gạo nếp. Cô dâu mang đồ đạc cá nhân, quần áo, quà gia đình mình tặng (chia cho) cùng quà mang về tặng bố mẹ chồng và họ hàng bên chồng.
- 6
Lễ lại mặt
Sau ngày cưới, đôi vợ chồng mang theo xôi, gà, rượu trở lại nhà gái để làm lễ lại mặt.