Bệnh Lyme
(Giúp bạn)Bệnh Lyme là một bệnh lây truyền từ động vật sang người (do ve đốt), tác nhân gây bệnh là do xoắn khuẩn Borrelia burgdorferi (B.b). Bệnh gây thương tổn chủ yếu ở da, hệ thần kinh, tim và khớp.
Theo Đời sống Pháp luật, con người mắc phải bệnh này sau khi bị bọ chét cắn. Triệu chứng ban đầu của bệnh Lyme là xuất hiện quầng đỏ hình vòng tròn xung quanh vết cắn. Tuy nhiên, không phải ai cũng có biểu hiện như vậy. Một số triệu chứng khác mà người bệnh gặp phải như mệt mỏi, đau đầu, đau khớp hay các biểu hiện giống như bệnh cúm,… khiến bác sĩ dễ nhầm lẫn với các bệnh khác.
Nguyên nhân bệnh Lyme
- Xoắn khuẩn Borelia burgdorferi dài từ 10-30 mm, rộng từ 0,2- 0,25 mm. Khác với T. pallidum là: B. burgdorferi có thể nuôi cấy được ở môi trường nhân tạo, chu kỳ sinh sản (khi ở nhiệt độ 30- 34°C) là 7- 20 giờ. Mầm bệnh có thể tìm thấy ở trong máu, da, dịch não tuỷ, mắt, dịch khớp và cơ tim ở bệnh nhân Lyme.
- Borelia burgdoferi có sự khác nhau về kiểu gen (genotype) và kiểu hình (phenotype) giữa các vùng bắc Mỹ, châu Âu, châu Á; do vậy, biểu hiện bệnh cũng không giống hệt nhau.
Yếu tố nguy cơ gây bệnh Lyme
Bệnh lây đường máu do ve truyền bệnh. Ve truyền mầm bệnh giữa các động vật với nhau và sang người khi hút máu. Ve có thể truyền bệnh ở tất cả các giai đoạn phát triển của nó.
Một số loài ve truyền bệnh này là:
- Ixodes dammini ở đông nước Mỹ.
- Ixodes pacificus ở miền tây nước Mỹ.
- Ixodes ricinus ở châu Âu.
- Ixodes persulcatus ở châu Á.
Mọi người, mọi lứa tuổi đều có khả năng mắc bệnh, nhưng những người có nguy cơ là những người làm nghề có thể tiếp xúc với ve như: nông dân, người làm nghề rừng hoặc khi đi chơi, cắm trại, tập luyện trong rừng...
- Dịch bệnh thường phát mạnh vào các tháng hè
- Miễn dịch sau mắc bệnh yếu, không vững bền nên có thể tái nhiễm.
Triệu chứng, biểu hiện bệnh Lyme
Sức khỏe & đời sống cho biết, bệnh Lyme có thể chia thành 3 thời kỳ lâm sàng, nhưng các thời kỳ có khi không tách biệt rõ ràng mà có thể chồng lên nhau.
+ Thời kỳ 1 (xuất hiện sau khi nhiễm B.b từ vài tuần- vài tháng): ban đỏ di chuyển là một loại ban phát triển ly tâm và có thể di chuyển địa điểm. Có thể là một ban đồng đều nhưng thường là một ban hình vành và tự mất sau vài tuần hoặc vài tháng. Có thể là ban xuất huyết hoặc không di chuyển và kèm theo triệu chứng toàn thân kiểu cúm. Dịch não tuỷ thường không có biểu hiện của viêm.
+ Thời kỳ 2: vài tuần hoặc vài tháng sau khi bị nhiễm khuẩn. Biểu hiện thần kinh có thể là viêm màng não-rễ thần kinh, viêm dây thần kinh sọ não (chủ yếu là dây thần kinh mặt), viêm đám rối thần kinh, viêm nhiều dây thần kinh đơn độc và hiếm hơn là viêm não tuỷ và viêm mạch máu não. Hội chứng Bannwarth là biểu hiện thần kinh hay gặp nhất (ở châu Âu) được đặc trưng bởi tăng lymphô bào trong dịch não tuỷ và đau rễ dây thần kinh. Viêm màng não thường có thể có và rõ nhất là ở trẻ em.
Tổn thương tim là bloc nhĩ thất nhất thời ở các mức độ khác nhau, rối loạn nhịp, viêm cơ- màng tim, suy tim. U lymphô biểu hiện bằng thâm nhiễm da giống như u, cục, mầu đỏ- xanh xanh hay thấy ở dái tai hoặc ở núm vú. Đau khớp (gặp ở các tháng đầu của bệnh) và đau cơ chứng tỏ có tổn thương cơ- xương. Một số dấu hiệu khác của thời kỳ 2 có thể gặp là tổn thương ở mắt (viêm màng tiếp hợp, viêm mống mắt ở mi, viêm màng mạch, viêm thị giác thần kinh với phù nề gai thị, viêm toàn mắt), gan to, viêm gan và hiếm hơn là ho khan và sưng tinh hoàn.
+ Thời kỳ 3: tổn thương xuất hiện chậm hàng tháng, hàng năm sau khi nhiễm B.b. Ở Mỹ, khoảng 60% bệnh nhân không được điều trị bị viêm nhiều hoặc một khớp, các khớp lớn như gối thường hay bị nhất. Bệnh nhân ở Châu Âu hay gặp thể ACA (acrodematite chronique atrophiante: viêm da viễn đoạn mạn tính teo, còn gọi là bệnh Pick- Herxheimer). ACA gây tổn thương chủ yếu ở mặt duỗi của các đầu chi với tổn thương nề, màu đỏ- xanh lúc đầu sẽ tiến dần thành teo- nhăn da. Có thể xuất hiện nút dạng xơ ở cạnh khớp và có thể xuất hiện quá trình xơ.Viêm não mạn tính của Lyme và viêm não- tuỷ có thể có nhưng rất hiếm.
Chẩn đoán bệnh Lyme
1. Chẩn đoán xác định:
- Các triệu chứng lâm sàng đặc trưng.
- Xét nghiệm máu: số lượng bạch cầu thường bình thường, máu lắng giờ đầu thường dưới 30 mm.
- Huyết thanh chẩn đoán: có nhiều kỹ thuật được áp dụng như: miễn dịch huỳnh quang, ngưng kết hồng cầu, Elisa, Western blot, nhưng không có kỹ thuật nào là chuẩn tuyệt đối vì còn tồn tại:
+ Dương tính giả: do bệnh nhân đã có kháng thể với các mầm bệnh gần với Borrelia như Treponema, Leptospira hoặc do bệnh nhân đã từng tiếp xúc với B. burgdoferi.
+ Âm tính giả: đặc biệt ở giai đoạn 1 (gặp ở 50% số bệnh nhân).
- Trong thể thần kinh: tìm thấy kháng thể trong dịch não tuỷ là tài liệu có giá trị trong chẩn đoán bệnh.
- Phân lập B. burgdoferi trong máu, dịch não tuỷ hoặc sinh thiết da: có giá trị chẩn đoán quyết định.
2. Chẩn đoán phân biệt:
- Ở giai đoạn 1, cần chẩn đoán phân biệt với những phản ứng da do các côn trùng khác đốt: ban đỏ trong bệnh Lyme thường không ngứa như ban đỏ do các côn trùng khác đốt và thường có kích thước rất to.
- Ở giai đoạn 2 và 3 cần chẩn đoán phân biệt với:
+ Nhiễm khuẩn huyết do các mầm bệnh khác.
+ Viêm khớp cấp hoặc viêm khớp mãn...
Phòng ngừa bệnh Lyme
- Việc phòng bệnh còn gặp khó khăn vì nhiều loại nguồn bệnh và vì ve kháng với nhiều thuốc diệt côn trùng.- Cách phòng bệnh tốt nhất là đề phòng cá nhân, chống bị ve đốt khi phải làm việc hoặc đi vào vùng có ve như: đi tất, quấn xà cạp, đi găng tay...
- Khi thấy ve trên da thì lấy ngay lập tức ve ra khỏi cơ thể.
- Không dùng kháng sinh dự phòng cho người bị ve đốt, trừ phụ nữ có thai. Để tránh nguy cơ cho thai nhi, có thể dùng amoxycilin.
Tham khảo thuốc: Paracetamol: là chất chuyển hóa có hoạt tính của phenacetin, là thuốc giảm đau - hạ sốt hữu hiệu có thể thay thế aspirin; tuy vậy, khác với aspirin, paracetamol không có hiệu quả điều trị viêm. |
Trà Mi
Theo GDVN